HỒNG
Hồng hồng
Tuyết tuyết,
Mới
ngày nào chửa biết cái chi chi !
Đó là
hai câu thơ mở đầu cho bài ca trù "Gặp
Cô Đào Cũ" của cụ Dương Khuê, bạn thân của Tam Nguyên
Yên Đổ Nguyễn Khuyến. HỒNG, TUYẾT thường dùng để đặt
tên cho các cô gái, nên Hồng Hồng Tuyết Tuyết là nhóm từ dùng để chỉ chung
các cô gái khi đang độ xuân thì, đẹp như hoa hồng mới hé nhụy và
trong sáng như tuyết trắng bay bay. Nên, trong văn học cổ ta thường gặp
các từ như...
HỒNG
NHAN 紅顏 là Gương mặt ửng hồng, là
gương mặt đẹp. Nên HỒNG NHAN thường dùng để chỉ người đẹp, như
trong Truyện Kiều khi chị em đi đạp thanh, Thúy Kiều đã nghe
Vương Quan kể về Đạm Tiên như sau :
Phận HỒNG
NHAN có mong manh,
Nửa chừng
xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Câu
"Phận Hồng Nhan có mong manh" là do câu nói chữ là "HỒNH NHAN BẠC
MỆNH 紅顏薄命", chỉ người đẹp thường
hay có mạng số truân chiên, lao đao lận đận, như lời của chàng
Thúc Sinh nói đỡ cho Thúy Kiều trước mặt Hoạn Thư :
Sinh rằng
: Thật có như lời,
HỒNG
NHAN BẠC MỆNH một người nào vay.
Nghìn
xưa âu cũng thế nầy,
Từ bi
xin liệu nới tay mới vừa !
Còn
trong bài Ca trù "Vịnh Thúy Kiều" của cụ Nguyễn Công Trứ thì
gọi là MÁ HỒNG PHẬN BẠC :
... Đã
biết MÁ HỒNG thời PHẬN BẠC,
Trách
Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng,
Chiếc
quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang...
Má Hồng
thời phận bạc, nên chả trách các người đẹp hay nhỏ lệ sầu thương, khóc cho
thân phận mỏng manh của mình, thậm chí đến nỗi "Máu theo nước mắt, hồn
lìa chiêm bao". Máu theo nước mắt là nước mắt đỏ như màu máu, gọi là
giọt HỒNG BĂNG 紅冰 như
trong Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều Ôn Như Hầu :
Ngọn
tâm hỏa đốt rầu nét liễu,
Giọt HỒNG
BĂNG thấm ráo làn son.
HỒNG
BĂNG là nước mắt sầu thương của người đẹp. Ngoài ra để chỉ
phái đẹp, trong văn học cổ còn có từ HỒNG QUẦN 紅裙 là cái Váy màu đỏ, một loại quần liền 2 ống của
phụ nữ ngày xưa thường được nhuộm màu đỏ cho bắt mắt... nam giới. Nên
HỒNG QUẦN cũng tượng trưng cho phụ nữ đẹp. Ta hãy nghe cụ Nguyễn Du giới
thiệu về chị em Thúy Kiều Thúy Vân như sau :
Phong
lưu rất mực HỒNG QUẦN,
Xuân
xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Các
giai nhân ngày xưa còn được gọi là BÓNG HỒNG, chẳng những bắt mắt đối
với nam giới mà còn bắt mắt với tất cả mọi người chung quanh. Ta lại nghe cụ
Nguyễn Du tả chị em Thúy Kiều trong buổi Đạp thanh như sau :
BÓNG HỒNG
nhác thấy nẻo xa,
Xuân
lan thu cúc mặn mà cả hai !
HỒNG
QUẦN 紅裙 là người đẹp, nhưng HỒNG
QUÂN 洪鈞 (không có dấu huyền) thì lại
là Ông Trời. Theo Văn Tuyển, Trương Hoa đời Tấn trong bài Đáp Hà Thiệu
có câu : 张华《答何劭》:“洪钧陶万类,大块禀群生。HỒNG QUÂN đào vạn loại, Đại khối bẩm quần
sinh”. Có nghĩa : Trời thì nhào nặn ra muôn loài, còn Đất thì nuôi sống mọi
sinh linh. Nên HỒNG QUÂN là Ông Trời. Trong văn học cổ ta thường nghe nói
"Hồng Quân không buông tha cho khách Hồng Quần" như cụ Nguyễn Du đã
cho Thúy Kiều than vãn khi lần thứ hai phải lọt vào lầu xanh :
HỒNG
QUÂN với khách HỒNG QUẦN,
Đã
xoay đến thế còn vần chưa tha.
... và
như trong phần mở truyện cụ cũng đã nêu lên thuyết "tài mệnh tương đố"
với câu :
Lạ gì
"Bỉ sắc tư phong",
TRỜI
xanh quen thói MÁ HỒNG đánh ghen.
... và
cụ cũng đã nói trong phần kết Truyện Kiêù là :
Cho
hay muôn sự tại TRỜI,
TRỜI
kia đã bắt làm người có thân,
Bắt
phong trần phải phong trần,
Cho
thanh cao mới được phần thanh cao !
HỒNG
QUÂN là Trời, là Tạo hóa, như trong Tứ Thời Khúc Vịnh của Hoàng Sĩ Khải, một
danh sĩ đời nhà Mạc :
Khéo
thay bấy HỒNG QUÂN chuốt vật,
Hình
chúc hình chẳng chút mũi lông.
Còn chỗ ở
của các giai nhân tiểu thư quyền qúy ngày xưa thì được gọi là HỒNG
LÂU như nàng cung nữ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều :
HỒNG
LÂU còn khóa then sương,
Thâm
khuê còn dấm mùi hương khuynh thành.
...Hay
như trong Sơ Kính Tân Trang của Chiêu Lỳ Phạm Thái :
Qúy canh
phỏng độ đôi mươi,
Chẳng
người tử thất cũng người HỒNG LÂU.
Tử Thất 紫室 là Căn phòng màu tím, đồng nghĩa với Tử Các 紫閣 là Căn gác màu tím, trong văn học gọi là Gác Tía. Nên Tử
Các Hồng Lâu hay là HỒNG LÂU TỬ CÁC 紅樓紫閣, ta
nói là LẦU SON GÁC TÍA, chỉ chỗ ở của những nhà quyền qúy cao sang.
Như trong Bích Câu Kỳ Ngộ chàng công tử Tú Uyên dọ hỏi về lai lịch của người đẹp
Giáng Kiều :
Mượn người
thăm hỏi gần xa,
HỒNG
LÂU TỬ CÁC đâu mà đến đây?
Ta lại
có từ HỒNG MAO 鴻毛 là Lông của con chim Hồng.
MAO 毛 là loại lông rất nhẹ, là
lông tơ, lông măng. Theo "Báo nhiệm An Thư 報任安書" trong Sử Ký của Tư Mã
Thiên 司馬遷的史記 đời Hán có câu
" 人固有一死,或重于泰山,或轻于鸿毛 Nhân cố hữu nhất tử,
hoặc trọng vu thái sơn, hoặc khinh vu hồng mao". Có nghĩa : Là người
cố nhiên phải chết, nhưng có những cái chết nặng như thái sơn, có những
cái chết nhẹ tợ lông hồng". Nên thường dùng từ HỒNG MAO để chỉ vật gì
rất nhẹ hoặc bị xem nhẹ. Như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc chỉ những chàng chinh
phu đi chinh chiến xem nhẹ cái chết với câu :
Chí
làm trai dặm ngàn da ngựa,
Gieo
Thái sơn nhẹ tựa HỒNG MAO.
Và
vì nhẹ tựa HỒNG MAO nên chim hồng mới bay được thật cao
và được ví với những người mang chí lớn có ý chí cao xa muốn làm nên
việc lớn như Từ Hải trong Truyện Kiều vậy :
Cánh HỒNG
bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn
con mắt phương trời đăm đăm.
Chim HỒNG
chim NHẠN là hai loại vịt trời hay bay thành từng đàn từng bầy, con lớn
bay rước hướng dẫn cho con nhỏ bay sau, nên HỒNG NHẠN 鴻雁 còn dùng để chỉ tình anh em, đồng đội, bằng
hữu ... như trong truyện Nôm Hoa Điểu Tranh Năng :
Dốc
tình bằng hữu chu tuyền,
Nghĩa
HỒNG NHẠN vẫn còn truyền xưa nay.
Chim HỒNG
chim NHẠN còn là hai loại chim dùng để đưa thơ ngày xưa, nên tin thư
gọi là TIN NHẠN như trong Truyện Kiều khi Tú Bà dạy nghề cho Thuý Kiều :
TIN NHẠN
dẫn, lá thư bài,
Đưa
người cửa trước, rước người cửa sau.
Còn đưa
tin bằng chim HỒNG thì gọi là HỒNG TIỆN như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đoàn
Thị Điểm :
Gió
tây thổi không đường HỒNG TIỆN,
Xót nỗi
người tuyết quyến mưa sa.
Hay đão
ngược lại là TIỆN HỒNG như khi Thúy Kiều đáp thư hồi âm cho Sở Khanh
:
Tan
sương vừa rạng ngày mai,
TIỆN HỒNG
nàng mới nhắn bài gởi sang.
Còn HỒNG
TRẦN 紅塵 là Bụi màu đỏ, có xuất
xứ từ một câu thơ trong bài "Tây Đô Phú" của văn sử gia Ban Cố đời
nhà Hán 文学家、史学家班固《西都赋》là : " 紅塵四合,烟雲相連. Hồng trần tứ hợp, yên vân tương
liên". Có nghĩa : "Bụi đỏ từ bốn bên họp lại và khói
và mây như liền lại với nhau". Câu trên dùng để chỉ cảnh phồn
hoa đô hội, ngựa xe đi qua khiến cho những làn bụi đỏ như
mây như khói cuốn lên cuồn cuộn. Khi dùng rộng ra HỒNG TRẦN có nghĩa là Cái thế
giới nầy, cái cuộc đời nầy, cái cảnh đời trần tục, cỏi trần thế xô bồ
xô bộn ... Khi từ giả Vương Ông xong, thì Mã Giám Sinh đã
cho đoàn xe ngựa chở Thúy Kiều phi như chạy trốn :
Đùng đùng
gió giục mầy vần,
Một xe
trong cỏi HỒNG TRẦN như bay !
Cũng
trong Truyện Kiều, HỒNG TRẦN được diễn Nôm thành BỤI HỒNG để chỉ cỏi đời
trần tục, như khi cả nhà đi theo sư Giác Duyên tìm được Thúy Kiều ở
thảo am, mọi người đều khuyên nàng về nhà đoàn tụ, thì Thúy Kiều đã
lý luận rằng :
Sự đời đã
tắt lửa lòng,
Còn
chen vào chốn BỤI HỒNG mà chi ?!
Cuối
cùng ta có tích HỒNG DIỆP 紅葉 là
Lá Đỏ.
Có 3
xuất xứ cho điển tích LÁ ĐỎ như sau :
* Theo
THỊ NHI TIỂU DANH LỤC 侍兒小名錄 :
Con
gái nuôi của tài nhân nhà Phụng Ân Vương đời Đường Đức Tôn 唐德宗 là Phượng Nhi 鳳兒 thường
đề thơ trên lá đỏ, rồi thả trên dòng nước từ cung vua trôi ra ngoài. Tiến sĩ Giả
Toàn Hư 賈全虛 bắt được lá. Quan Kim Ngô tâu
việc ấy lên vua. Nhà vua bèn gả Phượng Nhi cho Giả Toàn Hư và phong cho chức
Kim Ngô.
* Theo
sách VÂN KHÊ HỮU NGHỊ 雲溪友議 :
Thư
sinh Lư Ốc 盧渥 đi ngang qua ngự câu (dòng nước
chảy từ cung vua ra ngoài ), Ngẫu nhiên vớt được một chiếc lá đỏ trên đó có đề
một bài thơ. Ốc nâng niu và cất vào trong tráp. Khi vua Đường thải cung nữ cho
đi lấy chồng. Lư Ốc lấy được một cô, lại đúng là người thả chiếc lá kia. Lúc
trông thấy chiếc lá đỏ trong tráp, người vợ nói :” Khi ấy thiếp chỉ ngẫu nhiên
đề thơ, rồi thả theo dòng nước, không ngờ chàng lại chính là người đã nhặt được
!”.
* Theo
THANH TỎA CAO NGHI 青瑣高議 và THÁI BÌNH QUẢNG KÝ 太平廣記 :
Cung
nhân Hàn Thị 韓氏 đề một bài thơ trên lá đỏ :
Lưu
thuỷ hà thái cấp ? 流水何太急 ?
Thâm
cung tận nhật nhàn. 深宮盡日閒。
Ân cần
tạ hồng diệp, 殷勤謝紅葉,
Hảo khứ
đáo nhân gian ! 好去到人間!
Có
nghĩa :
Nước
chảy sao vội thế ?
Trong
cung suốt buổi nhàn.
Ân cần
nhờ là đỏ,
Đưa đến
chốn nhơn gian !
...Rồi
thả trên dòng nước từ cung vua trôi ra ngoài. Thư sinh Vu Hựu 于祐 nhặt được đem cất đi. Hựu lại viết hai câu thơ:
Tằng
văn diệp thượng đề hồng oán, 曾聞葉上題紅怨
Diệp
thượng đề thi ký A thùy ? 葉上題詩寄阿誰?
Có
nghĩa :
Từng
nghe lá đỏ đề thơ oán,
Lá đỏ
đề thơ gởi đến ai ?
...Rồi
cũng đợi nước lớn thả ngược vào trong cung. Hàn Thị bắt được lá cũng cất vào
trong rương. Sau vua Đường Hi Tôn cho thải ba ngàn cung nhân, Hàn Thị được thải
ra và rất tình cờ lại lấy được Vu Hựu làm chồng. Khi phát hiện ra lá đỏ của
nhau, vợ chồng cùng cảm kích mà nói :"Chúng ta phải tạ ơn cho hai người
mai mối, chính là hai cái lá đỏ nầy đây". Hàn Thị bèn từ trong tráp lấy ra
thêm một bài thơ nữa và nói với chồng rằng : “Đây là bài thơ của thiếp làm sau
khi vớt được chiếc lá của chàng!”. Vu Hựu bèn đọc bài thơ như sau :
Độc bộ
thiên câu ngạn, 獨步天溝岸,
Lâm
lưu đắc diệp thì. 臨流得葉時.
Thử
tình thùy khả đắc, 此情誰可得
Trường
đoản nhất liên thi ! 腸斷一聯詩 !
Có
nghĩa :
Lẻ loi
bước giữa dòng câu,
Bên bờ
vớt lá nghe sầu mênh mang.
Tình nầy
ai thấu can tràng,
Đau
lòng cung nữ đôi hàng thơ ai !
Vu Hựu
cũng cầm bút lên viết ngay một bài thất ngôn tuyệt cú như sau :
Nhất
liên giai cú tùy lưu thủy,
一聯佳句題流水,
Thập tải
u tư mãn tố hoài.
十載幽思滿素懷.
Kim nhật
khước thành loan phượng hữu, 今日卻成鸞鳳友,
Phương
tri hồng diệp thị lương mai(môi). 方知紅葉是良媒.
Có
nghĩa :
Đôi
câu thơ đẹp chảy theo dòng,
Ấp ủ
lòng son suốt chục năm.
May mắn
hôm nay loan phụng hợp,
Mới
hay lá đỏ chính mai dong !
Các
văn nhân thi sĩ ở Trường An lúc bấy giờ hưởng ứng rất đông. Trong số văn thơ xướng
họa, nổi tiếng nhất có bài thất ngôn tứ tuyệt của thi sĩ Cố Huống 顾况 như sau :
Hoa lạc
thâm cung oanh diệc bi, 花落深宮鶯亦悲,
Thượng
Dương cung nữ đoạn trường thì. 上陽宮女斷腸時。
Quân
ân bất bế đông lưu thủy,
君恩不閉東流水,
Diệp
thượng đề thi ký dữ thuỳ ? 葉上題詩寄與誰?
Có
nghĩa :
Hoa rụng
thâm cung oanh cũng sầu,
Thượng
Dương cung nữ quặn lòng đau.
Ơn vua
không bế dòng lưu thuỷ,
Trên
lá đề thơ gởi đến đâu ?!
Điển
tích “LÁ THẮM” được sử dụng rất nhiều và rất rộng rãi trong văn chương Việt
Nam. Phần đầu Truyện Kiều, khi dò la chỗ ở của Thúy Kiều, Kim Trọng đã đụng phải
:
Thâm
nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn
dòng LÁ THẮM dứt đường chim xanh !
Lá Thắm
là từ Nôm của từ “Hồng Diệp 紅葉” là
Lá đỏ thắm; mà Hồng Diệp lại là từ nói gọn lại của nhóm từ “Hồng Diệp Đề Thi 紅葉題詩” là “Lá Đỏ Đề Thơ”, hay là “Thơ Bài Lá
Đỏ” như trong thơ của Hoàng Sĩ Khải :
Thực
nhân tình THƠ BÀI LÁ ĐỎ,
Mạch sầu
kia hầu tỏ cùng ai.
... lắm
lúc lại được nói trại đi thành “Thả Lá Doanh Câu” như trong Bích Câu Kỳ Ngộ là
:
Trông
hoa lặng ngắt giờ lâu,
Ấy ai
THẢ LÁ DOÀNH CÂU ghẹo người ?!
Hồng
Diệp đôi khi còn được nói thành nửa Hán nửa Nôm là “Lá Hồng”, như trong Hoa
Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :
Gớm
nơi ngôi bảng duềnh khơi,
LÁ HỒNG
bỗng đến chi nơi nổi chìm.
Hồng
Diệp còn thường đi chung với Xích Thằng, thành “Hồng Diệp Xích Thằng紅葉赤繩”, như lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng
:
Nàng rằng
: HỒNG DIỆP Xích Thằng,
Một lời
cũng đã tiếng rằng tương tri !
Và như
trong Tây Sương Ký :
Sự đâu
nói gió bàn trăng,
Mà
nghe HỒNG DIỆP Xích Thằng như chơi !
Hồng
Diệp Xích Thằng nói Nôm na thành ra “Lá Thắm Chỉ Hồng”, cũng lời của Thúy Kiều
nói với Kim Trọng khi Kim tỏ tình :
Dù cho
LÁ THẮM Chỉ Hồng,
Nên
chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Nặng
lòng xót liễu vì hoa,
Trẻ thơ đã
biết đâu mà dám thưa !
Ta thấy,
điển tích Lá Thắm được sử dụng hết sức rộng rãi trong văn học cổ Việt Nam ta,
và được biến thể rất đa dạng từ Hồng Diệp đến Lá Thắm, Lá Hồng, Hồng Diệp Đề
Thi, Thư Bài Lá Đỏ, Hồng Diệp Xích Thằng … Nên muốn hiểu hết, cảm nhận hết ý
nghĩa của các câu thơ trên, ta phải tìm hiểu xuất xứ của điển tích này để thấy
được hết cái hay, cái ý vị hàm chứa trong các câu thơ đó.
Hẹn
bài viết tới !
Đỗ
Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* Các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ*