Tạp Ghi và Phiếm Luận :
HƯƠNG trong Truyện Kiều
HƯƠNG 鄉 là Làng Quê, là Quê Hương, HƯƠNG 香 là Mùi Thơm, là Hương Thơm, HƯƠNG 香 là Nhang, là Hương Khói, Hương lửa ...
Ta sẽ lần lượt điểm qua về các nghĩa của chữ HƯƠNG nầy trong
Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du nhé !...
Trước
tiên, HƯƠNG là Quê Hương, là "chùm khế ngọt" của những kẻ lưu
vong xa quê như chúng ta hiện nay, còn đối với những người còn ở
lại trong nước thì nó là "chùm khế chua lè !" của đám
dân nghèo đầu tắt mặt tối vẫn không kiếm đủ miếng ăn. Hương cũng là chữ
thuộc dạng Hội Ý của Lục Thư trong "CHỮ NHO...DỄ HỌC" có diễn
tiến như sau :
Ta thấy :
Ta thấy :
Giáp Cốt
Văn là hình tượng của hai người ngồi với tư thế qùy đối diện với
nhau, ở giữa là một cái đôn nhỏ trên có đặt một cái mâm như mâm
xôi vun lên; với Hội Ý là : Hai người cùng ngồi ăn hay cùng thảo luận
với nhau về việc gì đó; Ý là người cùng ở chung một nơi ngồi
lại với nhau, nên HƯƠNG 鄉 là
Làng xã, là nơi ta được sinh ra và lớn lên, là nơi mà trong Quốc Văn
Giáo Khoa Thư ngày xưa viết "Chỗ quê hương là nơi đẹp hơn cả
! "
HƯƠNG 鄉 là Làng , THÔN 村 là
Xóm. Nên Hương Thôn là Làng Xóm, là đơn vị tổ chức hành chánh nhỏ nhất của
xã hội ngày xưa. Trong làng thì có ban Hương Chức Hội Tề, Hương Thân Phụ
Lão, Hương Sư, Hương Quản, Hương Tuần ...
Quê
Hương là danh từ chung có ý nghĩa bao quát từ gần tới xa, từ nhỏ tới
lớn. NHỎ là làng xã, là nơi chôn nhau cắt rốn, GẦN là nơi ta cất tiếng
khóc chào đời, là quận huyện nơi ta cư ngụ, LỚN hơn XA
hơn nữa là tỉnh thành xứ sở nơi ta ở và LỚN nhất XA
nhất là đất nước do các đấng tiền nhân và ông cha
ta đã đổ bao xương máu để gây dựng nên, là Quê Hương VIỆT
NAM của chúng ta đó. Cho nên, dù bất cứ đi đâu đến đâu,
con người ta cũng nhớ đến Quê Hương. Trước cảnh lạ dù có đẹp đến đâu,
khi chiều xuống chỉ cần một làn khói lam chiều ẻo lả bốc lên từ một bếp
lửa nhà ai, hay một làn khói sóng bốc nhẹ trên mặt sông cũng làm cho ta chạnh
nhớ đến quê hương, như hai câu cuối trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu
:
Nhật mộ
HƯƠNG QUAN hà xứ thị ? 日暮鄉關何處是?
Yên ba
giang thượng sử nhân sầu ! 煙波江上使人愁!
mà cụ
Tản Đà đã diễn Nôm rất hay là :
QUÊ
HƯƠNG khuất bóng hoàng hôn,
Trên
sông khói sóng cho buồn lòng ai !
QUAN 關 là Quan ải thành quách nơi ta cư ngụ, nên Hương Quan
cũng dùng để chỉ Quê Hương, như khi Thúy Kiều ở lầu xanh nhớ về Quê
Hương :
Mối
tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc
HƯƠNG QUAN luống lần mơ canh dài.
Song
sa vò võ phương trời,
Nay
hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Quê
Hương có nhà cửa của ông bà cha mẹ và của... ta nữa, nên còn được gọi
là GIA HƯƠNG 家鄉, như
khi tưởng Thúy Kiều đã chết, Thúc sinh buồn tình nên mới nhớ tới vợ nhà
(đàn ông lúc nào cũng bạc bẽo là thế ! Bồ nhí chết rồi mới nhớ tới vợ),
nên mới :
Chạnh
niềm nhớ cảnh GIA HƯƠNG,
Nhớ
quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Cũng
là Quê Hương, nhưng là quê hương bên ngọai, thì được gọi là NGOẠI
HƯƠNG 外鄉, như
gia đình Vương Viên Ngoại đã "biện dâng một lễ" để
" mừng thọ Ngoại gia" vậy. Đến khi Thúy Kiều tiễn Kim Trọng về
Liêu Dương hộ tang chú xong rồi mới ...
Tần ngần
dạo gót lầu trang,
Một
đoàn mừng thọ NGOẠI HƯƠNG mới về,
Không
phải quê hương của mình, mà là quê hương của người khác, thì gọi là THA
HƯƠNG 他鄉. Kẻ sống ở
quê hương của người khác thì gọi là "KẺ THA HƯƠNG". Thúc phụ là
chú của Kim Trọng chết ở nơi đất khách, cho nên gia đồng
mới ...
Đem
tin thúc phụ từ đường,
Bơ vơ
lữ thấn THA HƯƠNG đề huề.
Đề Huề 提攜 vốn nghĩa là Mang, Xách. Ở đây dùng để
chỉ "mang về". Nên câu " Bơ vơ lữ thấn THA HƯƠNG
đề huề". Có nghĩa : Mang cái quan tài bơ vơ từ tha hương về
quê. Kẻ ở tha hương ngóng trông về quê cũ, Quê Cũ chữ Nho gọi là CỐ
HƯƠNG 故鄉, như
Thúy Kiều khi khuyên Từ Hải quy hàng cũng đã có dự tính riêng cho mình là
:
Công
tư vẹn cả hai bề,
Dần dà
rồi sẽ liệu về CỐ HƯƠNG.
Cũng
ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở
nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Không
gọi là CỐ HƯƠNG thì gọi là CỐ QUỐC. Chữ QUỐC 國 được
viết bởi bộ VI 囗 là cái Khuôn viên, cái Vòng rào
để chỉ Ý và chữ HOẶC 或 bên trong để chỉ ÂM. Nên QUỐC 國 là "Cái vòng rào, cái khuôn viên nơi ta cư ngụ, là
Làng, xã, quận, huyện, tỉnh thành... và Rộng hơn nữa là Nước mà ta đang ở. Nên
CỐ QUỐC ta thường hiểu là Nước Cũ, nhưng cũng có nghĩa là CỐ HƯƠNG là
Quê Cũ, như khi tiễn Từ Hải đi làm việc lớn rồi thì Thúy Kiều ở lại có một
mình, nên nàng cũng nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ quê hương :
Tấc lòng
CỐ QUỐC tha hương,
Đường
kia, nỗi nọ, ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng
bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn
con mắt phương trời đăm đăm !
Đó là
chữ HƯƠNG 鄉 chỉ Quê Hương có
"chùm khế ngọt" !
Còn...
Chữ HƯƠNG 香 nầy, chữ Nho có nghĩa là THƠM; chữ Nôm ta lại ghép chữ
Hương này với nghĩa Thơm của nó lại thành một từ kép HƯƠNG THƠM
dùng để chỉ Mùi Thơm. Như HƯƠNG THƠM NGÀO NGẠT là MÙI THƠM THƠM THẬT
là THƠM. HƯƠNG cũng là một trong 214 bộ của "CHỮ NHO ... DỄ
HỌC", cũng là dạng chữ Hội Ý trong Lục Thư theo diễn tiến của chữ
viết như sa
Ta thấy
:
Giáp Cốt
Văn và Đại Triên là chữ HÒA 禾
là hình tượng của cây lúa chín với bông lúa oằn xuống bên trái ở
trên đầu và các hột lúa chín rơi xuống hai bên, phía dưới là chữ CAM 甘 là NGỌT, với HỘI Ý là : Mùi ngọt của cây lúa chín là
mùi thơm của hạt lúa nuôi sống con người. Nên HƯƠNG là THƠM, mùi thơm để
duy trì cuộc sống; dùng rộng ra để chỉ tất cả các mùi thơm trên đời nầy.
Nói đến
HƯƠNG là người ta nghĩ ngay đến HOA HƯƠNG 花香 là mùi thơm của hoa, của các loại hoa cỏ, mùi thơm của thực
vật, còn mùi thơm của con người thì chỉ ưu tiên độc quyền cho mấy bà
mấy cô mà thôi ! Cũng khó trách, vì từ xưa đến nay ông
bà ta đã ví hoa như là người đẹp, hay nói đúng hơn là những người đẹp,
những giai nhân, được ví đẹp như hoa của nước, thơm như hương của trời,
nên còn gọi là SẮC NƯỚC HƯƠNG TRỜI, là QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG 國色天香. Khi nói về cuộc đời tài sắc của Đạm
Tiên, Vương Quan đã tỏ ra rất tiếc thương cho người đẹp :
Phận hồng
nhan có mong manh,
Nửa chừng
xuân thoắt gãy cành THIÊN HƯƠNG.
Người đẹp
luôn luôn phảng phất mùi hương, nên tiếc thương người đẹp thì gọi là
THƯƠNG HƯƠNG TIẾC NGỌC. Khi tả Kim Trọng nhớ Thúy Kiều thì cụ Nguyễn Du cũng viết
là :
HƯƠNG
gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Người đẹp ở
lối xóm lân cận thì gọi là HƯƠNG LÂN 香鄰, là
cô hàng xóm thơm phức, như Kim Trọng đã nói về Thúy Vân Thúy Kiều :
Trộm
nghe thơm nức HƯƠNG LÂN,
Một nền Đồng
Tước khóa xuân hai Kiều.
Đến
khi mướn được cái hiên Lãm Thúy ở sát cạnh nhà Thúy Kiều "canh
me" để gặp mặt người đẹp, cho nên đến một hôm "Cách tường
phải buổi êm trời, dưới đào dường có bóng người thướt tha", thì
Kim Trọng đã vội vàng :
Buông
cầm sóc áo vội ra,
HƯƠNG
còn thơm nức người đà vắng tanh.
Không
biết là Thúy Kiều đã sức dầu thơm loại gì mà "người đà vắng
tanh" trong khi HƯƠNG vẫn còn thơm nức !? Người đẹp ngày
xưa chưa có dầu thơm mà đã "thơm" được như thế sao ?! Ngay
cả đồ trang sức của người đẹp cũng có mùi thơm thoang thoảng,
như khi vớ được cành kim thoa của Thúy Kiều, thì Kim Trọng đã :
Liền
tay ngắm nghía biếng nằm,
Hãy
còn thoang thoảng HƯƠNG TRẦM chưa phai.
Cành
trâm còn có Hương Trầm, chả trách dải khăn là của Thúy Kiều cũng phảng phất mùi
hương :
Chén
hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là
HƯƠNG lộn bình gương bóng lồng.
Cho đến
hồn ma của con ma Đạm Tiên khi hiện lên cũng có mùi thơm, như :
Ào ào đổ
lộc rung cây,
Ở
trong dường có HƯƠNG bay ít nhiều.
Khuê
phòng của người đẹp ở thì gọi là HƯƠNG KHUÊ, như khi Thúc Sinh nghe
tiếng tài sắc của Thúy Kiều mà tìm đến vậy :
Hoa
khôi mộ tiếng Kiều nhi,
Thiếp
danh tìm đến HƯƠNG KHUÊ gởi vào.
Nhà ở
của Hoạn Thư thì gọi là Nhà Hương. Như Thúc Sinh sau khi ngỡ Thúy Kiều đã chết,
chàng đã "Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương, Nhớ quê
chàng lại tìm đường thăm quê", và sau khi "Hàn huyên vừa cạn mọi
bề gần xa" thì :
NHÀ
HƯƠNG cao cuốn bức là,
Buồng
trong kíp gọi nàng ra lạy mừng.
XE của
Hoạn Thư đi cũng được gọi là XE HƯƠNG. Khi đã khuyên Thúc Sinh
trở về Lâm Truy thăm cha với lời lẽ của cô dâu thảo :"Cách năm
mây bạc xa xa, Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn", và khi Thúc Sinh vừa
ra đi thì nàng Hoạn cũng lên XE HƯƠNG về nhà "mét má" :
Gió câu
vừa gióng dặm trường,
XE
HƯƠNG nàng cũng thuận đường quy ninh.
Thưa
nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi
chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen.
Tương
tự như trên, phòng của Thuý Kiều ở nhà Thúc Sinh gọi là PHÒNG HƯƠNG. Khi
Khuyển Ưng bắt Thúy Kiều đi rồi vớt xác vô chủ bên sông bỏ vào
nhà đang cháy, nên tớ thầy Thúc Ông tưởng Thúy Kiều đã bị chết
thiêu :
Chạy
vào chốn cũ PHÒNG HƯƠNG,
Trong
tro thấy một đống xương cháy tàn.
Ngay
tình ai biết mưu gian,
Hẳn
nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
Cái gì
của mấy bà mấy cô cũng có chữ HƯƠNG chen vào cả. Ngay cả Mồ-Hôi của phái nữ
cũng được gọi là HƯƠNG HẠN 香汗 là MỒ
HÔI...THƠM ! Thành ngữ HƯƠNG HẠN LÂM LI 香汗淋漓 dùng để diễn tả Mồ Hôi nhuễ
nhại của qúy bà qúy cô sau khi làm việc nặng hay tập thể dục chẳng
hạn. Ai bảo là đàn ông Châu Á không biết
"ga-lăng", không biết "Nịnh Đầm" đâu
?! Chỉ có những gả đàn ông thô bạo mày râu nhẵn nhụi như
Mã Giám Sinh mới không biết Tiếc Ngọc Thương Hương mà thôi :
Một
cơn mưa gió nặng nề,
Thương
gì đến NGỌC tiếc gì đến HƯƠNG.
Người đẹp
là Hương là Ngọc, cho nên ta phải biết Thương Hương Tiếc Ngọc. Như khi
Thúy Kiều "Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang" thì :
Thổ
quan theo vớt vội vàng,
Thời
đà đắm NGỌC chìm HƯƠNG mất rồi!
Hương
lan từ Phấn, Phấn tỏa làn Hương. Hương phấn phấn hương hòa quyện lấy
nhau tạo thành mùi hương và vẻ đẹp của người đẹp. Nên còn
Phấn còn Hương là còn trẻ còn đẹp, nên Thúy Kiều đã e ngại và lo
lắng khi Thúc Sinh muốn gá nghĩa trăm năm với mình :
Bình
Khang nấn ná bấy lâu,
Yêu
hoa yêu được một mầu điểm trang
Rồi ra
lạt PHẤN phai HƯƠNG,
Lòng
kia giữ được thường thường mãi chăng?
Những
người chuyên trục lợi trên thân xác của các cô gái trẻ đẹp, thì được
gọi là chuyên "buôn phấn bán hương" hay "buôn hương bán phấn"
như Tú Bà với Mã Giám Sinh vậy :
Mạt
cưa mướp đắng hai bên một phường
Chung
lưng mở một ngôi hàng,
Quanh
năm buôn PHẤN bán HƯƠNG đã lề.
Thương
nhớ người đẹp cũng là nhớ thương đến cái "hương gây mùi nhớ"
như Thúc Sinh sau khi đã mất Thúy Kiều rồi, nhìn vầng trăng non mà thương
xót :
Mày ai
trăng mới in ngần,
PHẤN
thừa HƯƠNG cũ bội phần xót xa.
HƯƠNG
còn là mùi thơm thoang thoảng nhẹ nhàng, phảng phất như những ước mơ nguyện
vọng hoài bão ở trong lòng muốn thể hiện, muốn dâng lên, muốn thỉnh cầu với
các đấng thiêng liêng... Nên, HƯƠNG còn là HƯƠNG KHÓI, HƯƠNG LỬA, là
NHANG ĐÈN ... để thể hiện tâm nguyện của mình, như Thúy Kiều đã
khấn vái cầu nguyện cho thân phận lẻ mọn của mình khi Thúc Sinh về
thăm vợ cả là Hoạn Thư :
NÉN
HƯƠNG đến trước Phật đài,
Nỗi
lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Nhang đèn,
hương khói, hoa qủa là những thứ không thể thiếu trong tín ngưỡng dân gian suốt
mấy ngàn năm của nền văn hóa dân tộc chịu ảnh hưởng của Phật
giáo, nên nghe Thúy Kiều muốn đi tu, thì Hoạn Thư đã vội vàng khi :
Tâng
tâng trời mới bình minh,
HƯƠNG
HOA, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
Đưa
nàng đến trước Phật đường,
Tam
quy ngũ giới cho nàng xuất gia !
... Hoạn
Thư cũng đã rất chu đáo với :
Sớm
khuya sắm đủ dầu đèn,
Xuân,
Thu, cắt sẵn hai tên HƯƠNG TRÀ.
... nên
Thúy Kiều cũng đã :
Phật
tiền thảm lấp sầu vùi,
Ngày
pho thủ tự, đêm nồi TÂM HƯƠNG.
Vì thế,
sau này ở Chiêu Ẩn Am với sư Giác Duyên thì Thúy Kiều
cũng đã :
Kệ
kinh câu cũ thuộc lòng,
HƯƠNG
ĐÈN việc cũ, trai phòng quen tay.
HƯƠNG ĐÈN
là HƯƠNG HỎA chỉ việc cúng tế thờ phượng, nhưng nếu nói thành HƯƠNG LỬA hay LỬA
HƯƠNG thì người ta lại nghĩ ngay đến HƯƠNG LỬA BA SINH hay BA SINH HƯƠNG LỬA để
chỉ tình duyên của đôi lứa gái trai (xem Thành Ngữ Điển Tích 53 :
HƯƠNG). Trai gái yêu nhau, hẹn hò với nhau là đã có LỬA có HƯƠNG với nhau rồi,
nên khi đã hẹn ước với nhau rồi mà suốt tháng vẫn chưa có dịp gặp mặt để hàn
huyên tâm sự, nên chàng Kim Trọng đã mở miệng than phiền với Thúy Kiều :
Trách
lòng hờ hững với lòng,
LỬA
HƯƠNG chốc để lạnh lùng bấy lâu.
khiến
cho Thúy Kiều phải lên tiếng an ủi :
Nàng rằng:"Gió
bắt mưa cầm...
Đã cam
tệ với tri âm bấy chầy.
Vắng
nhà được buổi hôm nay,
Lấy
lòng, gọi chút, ra đây tạ lòng !
Ta thấy
khi đã yêu nhau rồi thì gái trai gì đều đắm đuối mê mẫn như nhau. Khi đã chuộc
Thúy Kiều từ lầu xanh về để " Một nhà sum hợp trúc mai" cho
"Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông" rồi, cụ Nguyễn Du còn hạ thêm
hai câu để chỉ sự khắng khít đam mê sôi nổi hơn của đôi lứa yêu nhau là :
HƯƠNG
càng đượm LỬA càng nồng,
Càng
sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
Qủa là
những câu thơ sinh động gợi hình một cách kín đáo nên thơ của Truyện Kiều, nó
không phải là những quyến luyến thường tình như sau nầy Thúy Kiều phải chia tay
với Từ Hải :
Nửa
năm HƯƠNG LỬA đang nồng,
Trượng
phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Đến
câu nói trơ trẻn muốn tống khứ Thúy Kiều cho Thổ Quan của Hồ Tôn Hiến, thì từ
HƯƠNG LỬA chỉ là cái cớ bị người nói lợi dụng mà thôi :
Dạy rằng
HƯƠNG LỬA ba sinh,
Dây
loan xin nối cầm lành cho ai ?
Nhưng
đến lời than vãn tâm sự của chàng Kim khi trở lại vườn Thúy tìm Kiều không gặp,
thì từ LỬA HƯƠNG lại đầy tình nghĩa lứa đôi một cách chân thành thắm thiết :
Lời
xưa đã lỗi muôn vàn,
MẢNH
HƯƠNG còn đó phím đàn còn đây,
Đàn cầm
khéo ngẩn ngơ dây,
LỬA
HƯƠNG biết có kiếp này nữa thôi?
Chàng
Kim qủa là người tình chung thủy hiếm có, trong qúa trình tìm kiếm Thúy Kiều
chàng luôn tỏ ra rất chân thành nhớ đến Kiều chớ không phải chỉ
tìm lấy có :
Thề
xưa giở đến kim hoàn,
Của
xưa lại giở đến ĐÀN với HƯƠNG.
... và
...
Có khi
vắng vẻ thư phòng,
Đốt LÒ
HƯƠNG giở phím đồng ngày xưa.
chàng
luôn luôn nhớ đến lời ước nguyện với Thúy Kiều :
Mất
người còn chút của tin,
Phím
đàn với mảnh HƯƠNG NGUYỀN ngày xưa.
như
lời Thúy Kiều trối lại trước lúc ra đi :
Mai
sao dù có bao giờ.
Đốt LÒ
HƯƠNG ấy, so tơ phím này.
Nhưng
khi đến Hàng Châu thì đã dò hỏi và biết được :"Rằng ngày hôm nọ giao binh,
thất cơ Từ đã thu linh trận tiền" và "Nàng Kiều công cả chẳng
đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên Thổ-tù", nên "Nàng đà gieo
ngọc, trầm châu, Sông Tiền-đường đό, ấy mồ hồng-nhan!". Vì thế
mà cả nhà cứ đinh ninh là Thúy Kiều đã chết đuối :
Rõ
ràng HOA rụng HƯƠNG bay,
Kiếp
sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Khi đã
đoàn viên với nhau rồi, mọi người đều muốn cho Kim Kiều tái hợp, nhưng Thúy Kiều
vì nghĩ thân mình "Bấy chầy gió táp mưa sa, mấy trăng cũng khuyết mấy hoa
cũng tàn" nên đã từ chối khéo :
Lại
như những thói người ta,
Vớt
HƯƠNG dưới đất bẻ HOA cuối mùa.
Nhưng,
cuối cùng thì đôi đứa vẫn làm lễ nên duyên, mặc dù "Chẳng trong chăn
gối cũng ngoài cầm thơ", nên lại :
Thêm nến
giá nối HƯƠNG BÌNH,
Cùng
nhau lại chuốc chén quỳnh Giao Hoan.
"Giao
Hoan" 交歡. GIAO 交 là Qua lại với nhau, như Giao Tình 交情 là Tình cảm qua lại với nhau. HOAN 歡 là Hoan Lạc 歡樂 là
Vui vẻ. Nên GIAO HOAN 交歡 là "Cùng vui vẻ qua lại với
nhau". Như câu thơ trên " Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh Giao
Hoan" có nghĩa là : "Cùng chuốc chén rượu quỳnh tương để cùng vui với
nhau" mà thôi. Nhưng, hễ thấy chữ GIAO HOAN là người ta lại nghĩ ngay đến
sự làm tình giữa trai gái với nhau. Thế thì tại sao cụ Nguyễn Du lại dùng chữ
GIAO HOAN ở đây, mà không dùng chữ ĐỒNG HOAN, TƯƠNG HOAN hay CỘNG HOAN đều
có nghĩa là CÙNG VUI, mà lại dùng từ GIAO HOAN ?! Cụ có dụng ý hay muốn ám chỉ
gì chăng ?! Hay cụ muốn ngầm cho người đọc hiểu rằng : Trai gái gần nhau như lửa
gần rơm thì làm sao có thể chỉ " Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem
hoa nở khi chờ trăng lên" không cho được. Chuyện "Giao Hoan" là
chuyện thực tế của cuộc sống, sớm muộn gì cũng chắc chắn sẽ xảy ra mà thôi. Sẵn
nhớ lại...
Có một
lần lang thang trên mạng, đọc thấy một bài viết về tài "nói lái" của
cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều với trích đoạn cái đêm KIM KIỀU hội ngộ. Sau khi
"Đến nhà vừa thấy tin nhà, Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về" Kiều
bèn "Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình"
gặp Kim Trọng một lần nữa trong đêm để cùng nhau thề ước :
...Tóc
tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm
năm tạc một chữ đồng đến xương.
Chén
hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là
hương lộn bình gương bóng lồng.
Sinh rằng:
Gió mát trăng trong,
Bấy
lâu nay một chút lòng chưa cam.
Chày
sương chưa nện cầu Lam,
Sợ lần
khân quá ra sàm sỡ chăng?
Đoạn
trên có một câu tối nghĩa:"Dải là hương lộn bình gương bóng lồng". DẢI
LÀ là Dải khăn là khăn tay của Kiều có mùi HƯƠNG thì đúng rồi, nhưng sau lại là
HƯƠNG LỘN, LỘN ở đây rất tối nghĩa. Sao không phải là DẢI LÀ HƯƠNG THOẢNG, DẢI
LÀ HƯƠNG TỎA hay DẢI LÀ HƯƠNG ĐƯỢM... mà phải là DẢI LÀ HƯƠNG LỘN ? Phải
chăng cụ Tiên Điền nhà ta đang chơi trò nói lái ? Và ...chính cái "LÀ
HƯƠNG LỘN" đó đã làm cho Kim Trọng phải nói là "Bấy lâu nay một chút
lòng chưa cam" và đòi hỏi :"Chày sương chưa nện cầu Lam, Sợ lần
khân quá ra sàm sỡ chăng ?"...
Biết
đâu được ! Vì cụ Nguyễn Du cũng là người sống cùng thời với "Bà chúa thơ
Nôm" và lại còn có truyền thuyết cho là "Giữa Hồ Xuân Hương và đại
thi hào Nguyễn Du còn có một mối tình ?" Và "BÀ CHÚA THƠ NÔM HỒ
XUÂN HƯƠNG" lại là Bà Chúa chuyên "nói lái" trong thi ca mà ! Sự
thật ra sao thì chưa được rõ...
Chỉ
trình bày cho rộng đường... phiếm luận !
Xin được
kết thúc bài phiếm về "HƯƠNG trong Truyện KIỀU" với..."LÀ HƯƠNG
LỘN" ở trên !
Hẹn
bài viết tới !
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhiều điều kiện, chỉ có thiển ý như vầy:
Trả lờiXóa“Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.” Câu thứ 454 Truyện Kiều
Theo Từ điển Truyện Kiều của cụ Dào Duy Anh: “Tả hai người tình nhân ngồi gần nhau, mùi hương tỏa ra ở y phục của hai người lẫn lộn với nhau và bóng hai người lồng vào nhau ở gương của bình phong”
Còn tác giả Hồ Tĩnh Tâm, trong bài Chữ tửu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, viết:
“Chén hà” là chén ngọc nhuốm ráng chiều, rực lên. “Quỳnh tương” là rượu qúy. Chén qúy không thể rót rượu xoàng. Rượu qúy không thể uống chén xoàng. Chén và rượu phải “sánh giọng” với nhau.
“Dải là hương lộn” là những dải lụa ở trong thư phòng đều có tẩm mùi trầm hương bay lộn lên mà thấm vào.
“Bình gương bóng lồng”. “Bình” là bức bình phong trong thư phòng. “Gương” là tấm gương soi gắn trên bình phong. “Bình gương bóng lồng” là bóng hai người lồng vào nhau trong tấm gương soi trên bức bình phong.
Thiết nghĩ, chỉ với hai câu lục bát, thì không thể nào còn có thể tả hay hơn và đẹp hơn về cảnh đôi lứa nâng ly thề nguyền được nữa!