BÀI
KINH TRỪ DỊCH BỆNH - PHÁP HỘ TRÌ NGƯỜI TRÌ PHÁP
Thật sự
trong phật giáo Theravada, có một bài kinh rất nổi tiếng để có thể phòng tránh
những dịch bệnh nguy hiểm, đó là bản kinh đã được chư Tăng và phật tử sử dụng hộ
trì trong suốt 25 thế kỷ vừa qua .. gọi là Parita Ratana Sutta !
ĐIỂN
TÍCH BẢN KINH HỘ TRÌ DỊCH BỆNH RATANA
Các
Chú giải đều ghi duyên sự bài kinh từ câu chuyện ở thành Vesali (Tỳ-xá-ly),
kinh đô xứ Vajji (Bạt-kỳ) chịu 3 tai ương: nạn đói, ma quỷ quấy phá, và bệnh dịch.
Bộ tộc Licchavi cai trị xứ này, gửi một phái đoàn đến thành Vương-Xá
(Rajagaha), xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) của vua Bimbisara (Bình-sa, Tần-bà-sa-la) gặp
Đức Phật lúc bấy giờ đang ngự tại Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana). Họ thỉnh cầu
Ngài đến Vesali để giải trừ các tai ương ấy.
Khi
Ngài đến nơi cùng với vua trời Đế-thích (Sakka) và chư thiên, phần lớn các loài
ma quỷ hoảng sợ bỏ trốn. Trời đổ mưa xối xả rửa sạch thành phố. Đức Phật đọc
lên bài kinh Ratana Sutta, bảo ngài Ananda ghi nhớ rồi đi vòng quanh thành phố,
vừa đi vừa rải nước chứa trong bình bát và đọc tụng bài kinh nầy. Khi ngài
Ananda tuân lời Đức Phật làm theo như thế, những ma quỷ còn lại đều bỏ chạy và
bệnh dịch được tiêu trừ.
Sau
đó, dường như có một trận mưa lớn nên nhân dân thoát khỏi nạn dịch hoành hành,
nhờ mưa lớn nên mùa màng ruộng vườn tránh khỏi cái khô hạn! Hết dịch, hết đói
cũng vì thế. Chính nhờ sự mát mẻ, an lành từ oai lực kinh Paritta nên các trạng
thái tâm nóng nảy, hung dữ … lắng dịu lại.
Do
duyên sự đó, Ratana Sutta ngày nay thường được tụng đọc để xua tan bệnh tật,rủi
ro, và ma quỷ.
NỘI
DUNG BẢN KINH HỘ TRÌ RATANASUTTA
Bài kệ
này được Đức Thế Tôn thuyết giảng trong một duyên sự đặc biệt. Tôn giả A-Nan-Đa
đã vâng lời Đức Phật, học thuộc lòng bài kinh này, đi chung quanh ba vòng thành
Vesali, không phải chỉ tụng mà còn đem tâm từ của mình để hoà nhập cảm nhận thế
nào là giá trị của Phật, của Pháp, của Tăng qua 16 bài kệ.
Với 16
kệ ngôn, Đức Thế Tôn đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của Phật, Pháp,
Tăng. Những khía cạnh đó nói lên những giá trị thâm áo, những giá trị cao cả
,chân thật của Phật Pháp tăng như thế nào.
Sau
cùng ba bài kệ cuối nói về một lời mời thỉnh hướng đến những vị Phi nhơn nhất
là Chư Thiên có chánh kiến, những vị có oai lực. Xin các Ngài cảm nhận được ân
đức của Phật, ân đức của Pháp, ân đức của Tăng. Do sự cảm nhận này xin các ngài
hoan hỷ hộ trì cho thế gian này được nhiều sự tốt đẹp, cát tường.
PHÁP HỘ
TRÌ NGƯỜI TRÌ PHÁP
(Trích
dẫn Kinh Na Tiên)
Đức Thế
Tôn có dạy rằng: “Dù trong động thẳm hang sâu, trong những bảo điện kiên cố với
tường sắt vây quanh, giữa hư không bao la, sâu thẳm, giữa đáy đại dương hoặc
trong lòng muôn trượng của quả đất – chẳng có nơi nào thoát khỏi lưỡi hái của tử
thần!”
Ngài dạy
nghiệp quả không thể tránh được, tuy nhiên phải hiểu rõ tự mình độ mình bằng những
phương pháp như trong kinh Na Tiên thì chúng ta sẽ hiểu rõ mà không bị mâu thuẫn
:
“ Cũng
vậy là một người sanh mạng chưa chấm dứt, sự sống vẫn còn, nhưng do tiều tụy
héo mòn bởi phiền não, bởi nhiều sự tai hại, não hại mà ảnh hưởng đến thân và
tâm. Nếu kẻ ấy không có đức tin, hoàn toàn đổ sụp tinh thần, hoàn toàn tuyệt vọng
– thì tử thần có dễ dàng lê bánh xe của thần chết đến để nghiền nát sinh mệnh của
người kia không, hở đại vương?
• Chắc
chắn là vậy rồi!
•
Nhưng trái lại, nếu người ấy có quy y, tinh thần được khởi động để có niềm tin
nơi Tam bảo, tin vào oai lực kinh Paritta có thể ngăn ngừa được thần chết, nên
không mỏi mệt tụng kinh Paritta – thì thần chết có làm được gì kẻ kia không, nếu
thọ mạng và sự sống ông ta hãy còn?
• Lúc ấy
thì có thể thoát khỏi lưỡi hái của diêm chúa.
• Thế
kinh Paritta lúc ấy có thật sự lợi ích không hở đại vương!
• Thật
sự có lợi ích! …”
•
Vâng! Nếu có người bệnh, bệnh không nặng lắm – nếu uống đúng thuốc, đúng liều
lượng, biết kiêng cử thì bệnh sẽ lành chứ, đại vương?
•
Vâng,
• Và
khi ấy, thuốc ấy thật sự lợi ích chứ?
•
Vâng!
• Một
người khi có bệnh chút ít, tuổi thọ chưa chấm dứt, nếu người ấy có quy y Tam bảo,
có đức tin vững chắc mà tụng kinh Paritta – thì có ngăn được tử thần không, đại
vương?
• Có
thể được! Vì có lòng tin nên kinh Paritta sẽ phát sanh năng lực!
• Thế
là đại vương đã cùng chấp nhận quan điểm, là tụng kinh Paritta phát sanh năng lực
rồi!
HIỂU
ĐÚNG TÁC DỤNG CỦA BẢN KINH
Cho
nên kinh Paritta có nghĩa là “kinh hộ trì an lành”! Hộ trì nghĩa là bảo vệ, che
chở! Bảo vệ và che chở những người có đức tin, những người còn thọ mạng, nên
ngăn chặn được tử thần không cho đến sớm! Chứ không phải kinh Paritta có năng lực
bảo vệ và che chở những người không có đức tin, những người thọ mạng đã chấm dứt
!
Những
người có đức tin nơi Tam bảo, có đức tin vào năng lực kinh Paritta, tin về những
đức lành của kinh Paritta; dốc lòng trì tụng kinh Paritta thì có thể tiêu trừ tất
cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn; lại có công năng hộ trì an lành, ngăn ngừa được
lưỡi hái của tử thần là điều chắc thật!
Kinh
Paritta có người hộ trì được, có người không. Những người mà kinh Paritta không
thể hộ trì được có ba lý do sau:
- Một
là, do năng lực nghiệp ác cản trở.
- Hai
là, do nhiều phiền não phát sanh ở trong tâm.
- Ba
là, do người đọc tụng mà không có đức tin, không trì chí, không quyết tâm, chỉ
tụng đọc vẹt nơi miệng!
Đây là
truyền thống qua hàng ngàn năm của các nước Phật Giáo Nam Truyền, Khi đất nước
hoặc một vùng nào đó có biến động như dịch bệnh, đói kém, thì phật tử sẽ thỉnh
chư tăng tụng liên tục trong nhiều ngày, hoặc tự mình đọc tụng trong gia đình
liên tục, hay mình có thể mở nghe kinh bằng các thiết bị phát thanh để chống lại
các nạn thiên tai xảy đến cho mình và gia đình.
Theo Tạng
Luận Adhidhamma thì khi niềm tin được củng cố, Đại Thiện Tâm sẽ phát triển, khi
đó những Ác Nghiệp khó có cơ hội trổ sanh . Nên mới gọi là tự mình độ mình gọi
là Pháp Hộ Trì Người Trì Pháp vậy !
Namo
Buddhaya
(Như
Nhiên THÍCH TÁNH TUỆ biên soạn và tổng hợp)
Tiểu bộ
kinh
tiểu tụng
KINH
CHÂU BÁU
Phàm ở
tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Mong rằng mọi sanh linh,
Ðược đẹp ý vui lòng,
Vậy, hãy nên cẩn thận,
Lắng nghe lời dạy này.
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Mong rằng mọi sanh linh,
Ðược đẹp ý vui lòng,
Vậy, hãy nên cẩn thận,
Lắng nghe lời dạy này.
Do vậy
các sanh linh,
Tất cả hãy chú tâm,
Khởi lên lòng từ mẫn,
Ðối với thảy mọi loài,
Ban ngày và ban đêm,
Họ đem vật cúng dường,
Do vậy không phóng dật,
Hãy giúp hộ trì họ.
Tất cả hãy chú tâm,
Khởi lên lòng từ mẫn,
Ðối với thảy mọi loài,
Ban ngày và ban đêm,
Họ đem vật cúng dường,
Do vậy không phóng dật,
Hãy giúp hộ trì họ.
Phàm
có tài sản gì,
Ðời này hay đời sau,
Hay ở tại thiên giới,
Có châu báu thù thắng,
Không gì sánh bằng được,
Với Như Lai Thiện Thệ,
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Ðời này hay đời sau,
Hay ở tại thiên giới,
Có châu báu thù thắng,
Không gì sánh bằng được,
Với Như Lai Thiện Thệ,
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Ðoạn
diệt và ly tham,
Bất tử và thù diệu.
Phật Thích-ca Mâu-ni,
Chứng Pháp ấy trong thiền,
Không gì sánh bằng được,
Với Pháp thù diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh Pháp,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Bất tử và thù diệu.
Phật Thích-ca Mâu-ni,
Chứng Pháp ấy trong thiền,
Không gì sánh bằng được,
Với Pháp thù diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh Pháp,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Phật,
Thế Tôn thù thắng,
Nói lên lời tán thán,
Pháp thù diệu trong sạch,
Liên tục không gián đoạn,
Không gì sánh bằng được,
Pháp thiền vi diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh Pháp,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Nói lên lời tán thán,
Pháp thù diệu trong sạch,
Liên tục không gián đoạn,
Không gì sánh bằng được,
Pháp thiền vi diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh Pháp,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Tám vị
bốn đôi này,
Ðược bậc thiện tán thán.
Chúng đệ tử Thiện Thệ,
Xứng đáng được cúng dường.
Bố thí các vị ấy,
Ðược kết quả to lớn.
Như vậy, nơi tăng chúng,
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Ðược bậc thiện tán thán.
Chúng đệ tử Thiện Thệ,
Xứng đáng được cúng dường.
Bố thí các vị ấy,
Ðược kết quả to lớn.
Như vậy, nơi tăng chúng,
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Các vị
lòng ít dục,
Với ý thật kiên trì,
Khéo liên hệ mật thiết,
Lời dạy Gô-ta-ma!
Họ đạt được quả vị,
Họ thể nhập bất tử,
Họ chứng đắc dễ dàng,
Hưởng thọ sự tịch tịnh,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Với ý thật kiên trì,
Khéo liên hệ mật thiết,
Lời dạy Gô-ta-ma!
Họ đạt được quả vị,
Họ thể nhập bất tử,
Họ chứng đắc dễ dàng,
Hưởng thọ sự tịch tịnh,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Như
cây trụ cột đá,
Khéo y tựa lòng đất.
Dầu có gió bốn phương,
Cũng không thể dao động.
Ta nói bậc Chơn nhân,
Giống như thí dụ này,
Vị thể nhập với tuệ,
Thấy được những Thánh đế,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Khéo y tựa lòng đất.
Dầu có gió bốn phương,
Cũng không thể dao động.
Ta nói bậc Chơn nhân,
Giống như thí dụ này,
Vị thể nhập với tuệ,
Thấy được những Thánh đế,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Những
vị khéo giải thích,
Những sự thật Thánh đế,
Những vị khéo thuyết giảng,
Với trí tuệ thâm sâu.
Dầu họ có hết sức,
Phóng dật không chế ngự,
Họ cũng không đến nỗi,
Sanh hữu lần thứ tám,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Những sự thật Thánh đế,
Những vị khéo thuyết giảng,
Với trí tuệ thâm sâu.
Dầu họ có hết sức,
Phóng dật không chế ngự,
Họ cũng không đến nỗi,
Sanh hữu lần thứ tám,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Vị ấy
nhờ đầy đủ,
Với chánh kiến sáng suốt,
Do vậy có ba pháp,
Ðược hoàn toàn từ bỏ,
Thân kiến và nghi hoặc,
Giới cấm thủ cũng không,
Ðối với bốn đọa xứ,
Hoàn toàn được giải thoát.
Vị ấy không thể làm,
Sáu điều ác căn bản,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Với chánh kiến sáng suốt,
Do vậy có ba pháp,
Ðược hoàn toàn từ bỏ,
Thân kiến và nghi hoặc,
Giới cấm thủ cũng không,
Ðối với bốn đọa xứ,
Hoàn toàn được giải thoát.
Vị ấy không thể làm,
Sáu điều ác căn bản,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Dầu vị
ấy có làm,
Ðiều gì ác đi nữa,
Với thân hay với lời,
Kể cả với tâm ý,
Vị ấy không có thể,
Che đậy việc làm ấy,
Việc ấy được nói rằng,
Không thể thấy ác đạo.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Ðiều gì ác đi nữa,
Với thân hay với lời,
Kể cả với tâm ý,
Vị ấy không có thể,
Che đậy việc làm ấy,
Việc ấy được nói rằng,
Không thể thấy ác đạo.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Ðẹp là
những cây rừng,
Có bông hoa đầu ngọn,
Trong tháng hạ nóng bức,
Những ngày hạ đầu tiên,
Pháp thù thắng thuyết giảng,
Ðược ví dụ như vậy.
Pháp đưa đến Niết Bàn,
Pháp hạnh phúc tối thượng,
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Có bông hoa đầu ngọn,
Trong tháng hạ nóng bức,
Những ngày hạ đầu tiên,
Pháp thù thắng thuyết giảng,
Ðược ví dụ như vậy.
Pháp đưa đến Niết Bàn,
Pháp hạnh phúc tối thượng,
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Cao
thượng biết cao thượng,
Cho đem lại cao thượng,
Bậc Vô thượng thuyết giảng,
Pháp cao thượng thù thắng,
Như vậy nơi đức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Cho đem lại cao thượng,
Bậc Vô thượng thuyết giảng,
Pháp cao thượng thù thắng,
Như vậy nơi đức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Nghiệp
cũ đã đoạn tận,
Nghiệp mới không tạo nên,
Với tâm tư từ bỏ,
Trong sanh hữu tương lai,
Các hột giống đoạn tận,
Ước muốn không tăng trưởng
Bậc trí chứng Niết Bàn,
Ví như ngọn đèn này,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Nghiệp mới không tạo nên,
Với tâm tư từ bỏ,
Trong sanh hữu tương lai,
Các hột giống đoạn tận,
Ước muốn không tăng trưởng
Bậc trí chứng Niết Bàn,
Ví như ngọn đèn này,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Phàm ở
tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ Ðức Phật,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng, với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ Ðức Phật,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng, với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.
Phàm ở
tại nơi này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ Chánh pháp,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,;
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ Chánh pháp,
Ðã như thực đến đây,
Ðược loài Trời, loài Người,;
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.
Phàm ở
tại đời này,
Có sanh linh tụ hội
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ chúng Tăng,
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.
Có sanh linh tụ hội
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không,
Hãy đảnh lễ chúng Tăng,
Ðảnh lễ và cúng dường,
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc.
NGUỒN Email từ Thầy THÍCH TÁNH TUỆ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* Các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ*