Thơ NGUYỄN TRÃI
B. THƠ LÀM KHI CÔNG
THÀNH DANH TOẠI.
1. Bài
thơ THƯỢNG NGUYÊN HỖ GIÁ CHU TRUNG TÁC.
上元扈駕舟中作 Thượng
Nguyên Hỗ Giá Chu Trung Tác
沿江千里燭光紅, Duyên giang thiên
lý chúc quang hồng,
彩鷁乘風跨浪篷。 Thái Nghịch thừa
phong khóa lãng bồng.
十丈樓臺消蜃氣, Thập trượng lâu đài
tiêu thận khí,
三更鼓角壯軍容。 Tam canh cổ giác
tráng quân dung.
滄波月浸玉千頃, Thương ba nguyệt tẩm
ngọc thiên khoảnh,
仙杖雲趨天九重。 Tiên trượng vân xu
thiên cửu trùng.
午夜篷窗清夢覺, Ngọ dạ bồng song
thanh mộng giác,
猶疑長樂隔花鐘。 Do nghi Trường Lạc
cách hoa chung.
* Chú Thích :
- Thượng
Nguyên 上元 : là Rằm tháng giêng, là Tiết
Nguyên Tiêu.
- hỗ
giá 扈駕 : HỖ là theo sau, hộ vệ; HỖ GIÁ
: Đi theo hầu thuyền vua.
-
Duyên Giang 沿江 : là Dọc theo bờ sông.
- Thái
Nghịch 彩鷁 : là tên đặt cho một chiếc thuyền
vua có vẽ hình con chim Nghịch đón gió với màu sắc rực rỡ.
- Thận
khí 蜃氣 là Ảo ảnh. Ánh sáng rọi xuống
biển, phản chiếu ngược lên trên không thành muôn hình vạn trạng, như lâu đài,
chợ búa ... Ngày xưa cho là vì có con sò thần biến hóa ra cảnh thần tiên, nên gọi
là “Thận Lâu Hải Thị 蜃樓海市 là
Lầu Sò Chợ Biển" để chỉ các ảo ảnh về cảnh thần tiên trên biển chỉ là hư ảo
không có thật.
- Cổ
Giác 鼓角 : Cổ là Trống; Giác là Sừng.
Nên CỔ GIÁC là Tiếng trống tiếng tù-và thổi trong quân lúc gác đêm.
-
Thương Ba 滄波 : là Sóng xanh, xuất xứ từ
THƯƠNG HẢI 滄海 là Biển xanh.
- Tiên
Trượng 仙杖 : là Gậy tiên. Gậy tre của
tiên chống, có thể hóa thành rồng cởi để bay lên mây xanh.
- Cửu
Trùng 九重 : là Chín tầng. Theo truyền
thuyết cổ đại của Trung Hoa thì Trời có 9 tầng, nên gọi là Cửu Trùng
Thiên 九重天. Vua là Thiên Tử là con trời,
nên cũng gọi vua là Đấng Cửu Trùng; Tiếng Nôm ta gọi là Chín Tầng, như mở đầu
Chinh Phụ Ngâm Khúc có câu :
CHÍN TẦNG
gươm báu trao tay,
Nửa
đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
- Ngọ
Dạ 午夜 : là Nửa đêm. Phiếm chỉ
Đêm khuya.
- Trường
Lạc 長樂 : là Cung Trường Lạc. Một
cung điện của nhà Hán xưa ở trong thành Trường An (thuộc tỉnh Thiểm Tây Trung
Quốc ngày nay), cùng với cung Vị Ương 未央 là
nơi xưa Hán Cao Tổ hay đón tiếp quần thần và chư hầu.
* NGHĨA BÀI THƠ :
Cảm
Tác Ngày Rằm Thượng Nguyên Hỗ Giá trong Thuyền
Cả
ngàn dặm dọc theo bờ sông đều rực sáng bởi ánh đuốc sáng rực. Chiếc thuyền có
chạm hình chim Thái Nghịch rực rỡ đang cởi gió lướt đi trên sóng. Lầu thuyền
cao mười trượng lấp lánh hư ảo như cảnh thần tiên trên biển, và tiếng trống giục
hòa lẫn tiếng tù-và rít lên lúc canh ba càng làm tăng thêm vẻ hùng tráng của
quân binh. Thuyền lướt trên sóng xanh với ánh trăng lắp loáng chìm trong đáy nước
như muôn ngàn mảnh ngọc vỡ ra; những cây cột buồm như những cây gậy tiên như
vươn cao và lướt trên mây lên tận chín từng trời. Ta chợt tỉnh giấc mộng thanh
thản bên song thuyền lúc giữa đêm khuya, mà còn ngờ là đang nghe tiếng chuông
hoa đang gọi chầu nơi cung Trường Lạc.
Quả là
cảnh hỗ giá sau thanh bình chiến thắng trở về, với sĩ khí lên cao, đèn hoa rực
rỡ trong đêm rằm Nguyên Tiêu sau Tết Nguyên Đán trên thuyền của vua đi. Nguyễn
Trãi đã nằm trong khoang thuyền theo sau thuyền vua, nhìn ra trước mũi thuyền
có chạm trổ hình chim nghịch với màu sắc rực rỡ như đang lướt đi trên sóng và
các cột buồm như những chiếc gậy tiên đang chọc thẳng lên chín từng mây. Cảnh
náo nhiệt với các đuốc hoa rực rỡ dọc theo bờ sông, cảnh hùng tráng với tiếng
tù-và tiếng trống giục trên thuyền của quân binh đã vẽ nên một cảnh thanh bình
thịnh vượng của một đất nước độc lập tự chủ sau những năm trầm luân trong đô hộ.
* Diễn Nôm :
Thượng
Nguyên Hỗ Giá Chu Trung Tác
Ngàn dặm
ven sông đuốc rực hồng,
Thuyên
rồng cởi gió lướt trên sông.
Lâu
thuyền mười trượng mờ tiên cảnh,
Còi trống
ba quân vẳng khí hùng.
Trăng
vỡ ngàn sao nhòa đáy nước,
Gậy
tiên chín lớp vượt không trung.
Nửa
đêm tỉnh mộng bên song cỏ.
Còn ngỡ
chuông hoa Trường Lạc cung !
Lục bát :
Ven
sông ngàn dặm đuốc hồng,
Mũi
thuyền cởi gió lướt dòng sóng xanh.
Lâu
thuyền cao xóa khí lành,
Trống
còi giục giã đêm thanh hào hùng.
Trăng
chìm đáy nước mông lung,
Gậy
tiên vươn thẳng chín từng mây cao.
Nửa
đêm tỉnh giấc song đào,
Còn ngờ
Trường Lạc hôm nao gọi chầu.
Đỗ Chiêu Đức
2. Bài thơ ĐỀ KIẾM :
題劍
ĐỀ KIẾM
藍山自昔臥神龍, Lam Sơn tự tích ngọa thần
long,
世事懸知在掌中。 Thế sự huyền tri tại chưởng
trung.
大任有歸天啓聖, Đại nhậm hữu quy thiên khải
thánh,
昌期一遇虎生風。 Xương kỳ nhất ngộ hổ sanh
phong.
國讎洗盡千年恥, Quốc thù tẩy tận thiên
niên sỉ,
金匱終藏萬世功。 Kim quỹ chung tàng vạn thế
công.
整頓乾坤從此了, Chỉnh đốn càn khôn tòng
thử liễu,
世間那更數雄英。 Thế gian na cánh sổ anh
hùng.
* Chú Thích :
- KIẾM
ở đây là Thuận Thiên kiếm 順天劍 hay
kiếm thần Thuận Thiên là thanh kiếm huyền thoại của vua Lê Lợi, người đã đem lại
độc lập cho Việt Nam từ ách cai trị của nhà Minh phương Bắc.
- LAM
SƠN 藍山 : Tên núi ở huyện Thọ Xuân
(Thanh Hóa ngày nay), năm 1418 (Mậu Tuất), Bình Định Vương Lê Lợi đã khởi nghĩa
tại đây.
- NGỌA
THẦN LONG 臥神龍 : "Ngoạ long" là con
rồng nằm, thường dùng để chỉ Gia Cát Khổng Minh thời Tam Quốc (Trung Hoa) lúc
còn ở ẩn tại Ngoạ Long Cương (huyện Nam Dương, tỉnh Hà Nam). Trong bài này,
Nguyễn Trãi dùng "Ngoạ Thần Long" để chỉ Lê Lợi khi còn ở núi rừng
Lam Sơn.
-
THIÊN KHẢI THÁNH 天啓聖 : Trời bảo cho thánh nhân (tức
Lê Lợi) biết. Chỉ việc Lê Lợi được trời cho kiếm thần trên có chữ "Thuận
Thiên". Năm 1428 (Mậu Thân), Lê Lợi lên ngôi vua, lấy hiệu là Thuận Thiên.
- HỔ
SANH PHONG 虎生風 : Cọp sinh ra gió. Lấy ý ở quẻ
Càn 乾 trong kinh Dịch 易: "Vân tòng long, phong tòng hổ" 雲從龍,風從虎 (Mây theo rồng, gió theo cọp).
- KIM
QŨY 金匱 : Do chữ "Kim quỹ thạch thất"
金匱石室 là rương làm bằng vàng, nhà xây
bằng đá để cất giữ sử sách. Vua Cao Tổ nhà Hán dùng tráp bằng vàng cất giữ những
biểu dương ghi chép công lao của các công thần.
- CÀN
KHÔN 乾坤 : chỉ Âm dương Trời đất, mượn để
chỉ cuộc đời nầy.
* Nghĩa Bài Thơ :
Đề Lưỡi
Kiếm Thần của Lê Lợi
Đất
Lam Sơn từ xưa vốn là nơi đã nằm sẵn một con rồng thần. Chuyện đời đã biết
rõ rành rành như trong lòng bàn tay. Khi trách nhiệm lớn đã có người gởi gắm
thì trời cũng báo cho bậc thánh nhân biết trước, và khi thời cơ tốt đã đến thì
như chúa sơn lâm được sự hỗ trợ của gió vậy. Quốc thù cũng đã được rửa sạch cái
nhục của cả ngàn năm, và rương vàng cũng cất giữ lại công lao muôn đời của các
bậc công thần. Từ nay đã kết thúc việc chỉnh đốn lại càn khôn trời đất của ta,
thử nghĩ trên đời nầy có được mấy người anh hùng như thế chứ ?!
Ý là Đề
Gươm, nhưng thật ra là để ca ngợi sự kiên nhẫn và chiến tích vẻ vang của Bình Định
Vương Lê Lợi. Được kiếm Thuận Thiên là thuận theo ý trời, như hùm gặp gió, như
hổ thêm vây rửa sạch cái nhục ngàn năm mà ổn định lại trật tự xã hội của dân
Nam, thành tích nầy không phải anh hùng nào cũng làm được !
Nhà
thơ Nguyễn Văn Cổn thời Tiền Chiến trong bài thơ Nước Tôi cũng đã lấp lửng mà
ca ngợi bằng hai câu thơ :
Rùa
thiêng nổi trước thuyền rồng,
Trên Hồ
Hoàn Kiếm anh hùng là ai ?
* Diễn Nôm :
ĐỀ KIẾM
Lam
Sơn xưa vốn đất tiềm long,
Thế sự
trong tay đã tỏ lòng.
Đại cuộc
chuyển xoay trời ban thánh,
Thuận
Thiên kiếm báu hổ nương phong.
Báo
xong thù nước ngàn năm nhục,
Ghi dấu
hộp vàng muôn thuở công.
Chỉnh
đốn đất trời nay trọn vẹn,
Anh
hùng mấy kẻ được như ông ?!
Lục bát :
Lam
Sơn xưa đất ẩn rồng,
Chuyện
đời đã rõ như lòng bàn tay.
Thế trời
tỏ rõ thánh hay,
Thuận
Thiên thần kiếm thêm vây cho hùm.
Ngàn
năm thù nước báo xong,
Rương
vàng nhà đá ghi công muôn đời.
Đất trời
chỉnh đốn xong rồi,
Anh
hùng dưới thế mấy người như ông ?!
Đỗ Chiêu Đức
3. Bài thơ ĐỀ BÁ NHA CỔ CẦM ĐỒ
題伯牙鼓琴圖 ĐỀ
BÁ NHA CỔ CẦM ĐỒ
鐘期不作鑄金難, Chung Kỳ bất tác chú kim
nan,
獨抱瑤琴對月彈。 Độc bão dao cầm đối nguyệt
đàn.
靜夜碧霄涼似水, Tĩnh dạ bích tiêu lương tự
thủy,
一聲鶴唳九皋寒。 Nhất thanh hạc lệ cửu cao
hàn !
* Chú Thích :
- BÁ
NHA 伯牙 : hay Sở Bá Nha, họ Du tên Thụy,
người nước Sở nhưng làm quan Thượng Đại Phu nước Tấn. Ông là một khách phong
lưu, có ngón đàn thất huyền cầm nổi tiếng đương thời. Tương truyền một năm nọ,
Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua nước Sở. Trên đường trở về đến sông Hán, gặp
đêm trung thu trăng thanh gió mát, ông lệnh cho quân lính dừng thuyền uống rượu
thưởng nguyệt. Cao hứng mang đàn ra gảy nhưng bản đàn chưa dứt đã bị đứt dây.
Bá Nha ngờ có người biết nghe đàn, định truyền quân lên bờ đi tìm thì vừa hay
có tiếng chàng trai nói vọng xuống, rằng mình là một tiều phu, thấy khúc đàn
hay quá nên dừng chân nghe. Bá Nha có ý nghi hoặc, nhưng khi chàng trai đối đáp
trôi chảy, thậm chí biết rõ bản đàn mà mình vừa gảy thì ông không còn mảy may
ngờ vực nữa, bèn mời xuống thuyền đàm đạo. Trên thuyền, Bá Nha gảy khúc nhạc
Cao sơn Lưu thủy, người tiều phu rung cảm sâu sắc, cao đàm khoát luận, khiến Bá
Nha khâm phục hết mực.
Chàng
trai trẻ đó chính là Chung Tử Kỳ 鍾子期, họ
Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn gần núi Mã Yên cửa sông Hán Giang, là một
danh sĩ ẩn dật, đốn củi sớm tối phụng dưỡng mẹ cha già yếu. Được người tri âm,
Bá Nha có ý mời Tử Kỳ cùng mình về kinh tiến cử cho Tấn vương để cùng vui hưởng
vinh hoa phú quý. Nhưng Tử Kỳ thoái thác vì chữ hiếu. Bá Nha đành phải hẹn Tử Kỳ
trung thu năm sau sẽ gặp lại ở chốn nầy. Nhưng khi Bá Nha trở lại bến sông xưa,
thì Tử Kỳ đã mất trong một cơn bạo bệnh. Trước khi chết Tử Kỳ còn trăng trối phải
chôn chàng nơi bến sông Hán Dương, cạnh núi Mã Yên, để giữ lời hẹn với Bá Nha.
Bá Nha tìm đến mộ Tử Kỳ, bày đồ tế lễ, khóc than sầu thảm, gảy một bản nhạc ai
điếu. Đàn xong, ông đập đàn vào đá, thề trọn đời không đàn nữa vì biết mình từ
nay vĩnh viễn không còn bạn tri âm nữa.
- CỔ CẦM
鼓琴 : CỔ danh từ là Cái Trống; động
từ là Đánh Trống. nên CỔ CẦM ở đây có nghĩa là Đánh Đàn, Gãy đàn.
- CHÚ
KIM 鑄金 : là Đúc bằng vàng. CHÚ KIM NAN
là Khó mà đúc được bằng vàng.
- BÍCH
TIÊU 碧霄 : là Bầu trời xanh biếc.
- CỬU
CAO 九皋 : là chín cái đầm nước. Kinh
Thi chương Hạc minh có câu: “Hạc minh vu cửu cao, thanh văn vu dã” 鶴鳴于九皋,聲聞于野: Chim
hạc kêu ở chỗ có chín đầm nước vang khắp đồng nội. Số 9 ở đây là phiếm chỉ, chỉ
rất nhiều đầm nước ở ngoài đồng nội.
* Nghĩa Bài Thơ :
Đề Bức
Tranh Bá Nha Gãy Đàn
Không
làm được Chung Kỳ vì đúc tượng vàng Chung Kỳ khó.(Ý muốn nói : Chung Tử Kỳ là
người tri âm qúy hiếm, rất khó tìm thấy trên đời, kể cả đúc bằng kim loại), Nên
mới một mình ôm cây dao cầm mà đàn dưới ánh trăng. Đêm thanh vắng, bầu trời
xanh biếc trong mát như nước. Một tiếng chim hạc kêu làm lạnh cả chín đầm nước
ngoài đồng nội.
* Diễn Nôm :
ĐỀ TRANH BÁ NHA GÃY ĐÀN
Chung
Kỳ khó gặp đúc nên vàng,
Đơn độc
dưới trăng lạnh gãy đàn.
Đêm
mát trời xanh trong tợ nước,
Hạc
kêu một tiếng chím đầm vang !
Lục
bát :
Tri âm
khó đúc hơn vàng,
Dưới
trăng một bóng ôm đàn gãy suông.
Đêm
thanh trời mát tợ gương,
Hạc
kêu một tiếng lạnh vương chín đầm !
Đỗ Chiêu Đức
4. Bài
thơ QUÁ THẦN PHÙ HẢI KHẨU :
過神符海口
QUÁ THẦN PHÙ HẢI KHẨU
神符海口夜中過, Thần Phù hải khẩu dạ trung
qua,
奈此風清月白何。 Nại thử phong thanh nguyệt
bạch hà.
夾岸千峰排玉筍, Giáp ngạn thiên phong bài
ngọc duẩn,
中流一水走青蛇。 Trung lưu nhất thủy tẩu
thanh xà.
江山如昨英雄逝, Giang sơn như tạc anh hùng
thệ,
天地無情事變多。 Thiên địa vô tình sự biến
đa.
胡越一家今幸睹, Hồ Việt nhất gia kim hạnh
đổ,
四溟從此息鯨波。 Tứ minh tòng thử tức kình
ba !
* Chú Thích :
- THẦN
PHÙ HẢI KHẨU 神符海口 : là Cửa biển Thần Phù. Theo
Nam Ông Mộng Lục 南翁夢錄, Vua Lý Thái Tông mang quân Nam
tiến để đánh dẹp Chiêm Thành, đến cửa biển này gặp gió to sóng dữ, không đi được;
may nhờ một đạo sĩ có phép thuật cao cường dẹp yên sóng dữ. Khi ban sự trở về,
đạo sĩ mất ở dọc đường. Vua cho lập đền thờ ở cửa biển, phong hiệu là "Áp
Lãng Chân Nhân 壓浪真人" (Chân nhân dẹp yên được
sóng dữ) và đặt tên nơi đây là cửa biển Thần Phù.
- NẠI...
HÀ 奈...何 : Phải làm sao đây ? Biết nói sao đây ?!
-
PHONG THANH NGUYỆT BẠCH 風清月白 : Ta
nói là Gió mát trăng thanh.
- GIÁP
NGẠN 夾岸 : Hai bên bờ.
- NGỌC
DUẨN 玉筍 : là Măng non mới mọc.
-
GIANG SƠN NHƯ TẠC 江山如昨 : Núi sông như mới ngày hôm
qua.
- HỒ
VIỆT 胡越 : Tên các nước thuộc Trung Quốc.
Hồ chỉ các nước nhỏ ở phía bắc, Việt chỉ các nước nhỏ ở phía nam, nên HỒ VIỆT ý
chỉ hai nơi rất xa nhau. Tác giả ngụ ý khi hoà hợp thì xa cũng hoá gần.
- TỨ
MINH 四溟 : là Tứ Phương Chi Hải 四方之海, là Biển của bốn phương; ta nói là Bốn
Bể, có nghĩa là khắp nơi khắp chốn.
- KÌNH
BA 鯨波 : Sóng do con cá kình lội mà tạo
nên, ở đây mượn ý để chỉ các chiến thuyền lướt sóng như cá kình cá voi; và Chiến
Thuyền Lướt Sóng hàm ý chỉ chiến tranh.
* Nghĩa Bài Thơ :
QUA CỬA BIỂN THẦN PHÙ
Trong
đêm đi ngang qua cửa biển Thần Phù, trong cảnh gió mát trăng thanh nầy, ôi, phải
biết nói sao đây ?! Giáp hai bên bờ là hàng ngàn ngọn núi vươn lên như những
búp măng mới mọc, và ở giữa là một dòng chảy lấp loáng dưới ánh trăng như một
con rắn xanh. Sông núi vẫn như ngày hôm qua, nhưng những người anh hùng thì đã
khuất. Trời đất vô tình trước sự biến hóa đổi thay. May mắn là đã nhìn thấy được
hôm nay Hồ Việt đã chung lại một nhà, bốn biển từ đây cũng đã chấm dứt sóng
kình (chấm dứt chuyên can qua).
* Diễn Nôm :
QUA CỬA
BIỂN THẦN PHÙ
Thần
Phù cửa biển giữa đêm qua,
Gió
mát trăng thanh biết phải là ?
Núi đá
hai bờ như duẩn ngọc,
Nước
xanh một dãi tựa thanh xà.
Giang
sơn còn đó anh hùng mất,
Trời đất
vô tình thế sự đa.
Hồ Việt
nay đà chung một mái,
Thanh
bình bốn biển hết can qua !
Lục
bát :
Thần
Phù cửa biển trong đêm,
Nói
sao gió mát êm đềm trăng thanh.
Đôi bờ
ngàn núi như tranh,
Giữa
trôi lấp lánh rắn xanh một dòng.
Giang
sơn đó, đâu anh hùng ?
Sự đời
biến đổi vô chừng thoáng qua.
Nay mừng
Hồ Việt một nhà,
Từ nay
chinh chiến can qua chẳng còn !
Đỗ Chiêu Đức
5. Bài thơ DỤC THÚY SƠN.
浴翠山 DỤC THÚY SƠN
海口有仙山, Hải khẩu hữu tiên san
年前屢往還。 Niên tiền lũ vãn hoàn.
蓮花浮水上, Liên hoa phù thủy thượng,
仙景墜人間。 Tiên cảnh trụy nhân gian.
塔影簪青玉, Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
波光鏡翠鬟。 Ba quang kính thúy hoàn.
有懷張少保, Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
碑刻蘚花斑。 Bi khắc tiễn hoa ban.
* Chú Thích :
- DỤC
THÚY SAN 浴翠山 : Dục Thúy là Tắm trong màu
xanh biếc. Núi Dục Thuý, tức núi Non Nước ở Ninh Bình, tên Dục Thuý là do
Trương Hán Siêu đặt, vì núi soi bóng xuống cửa biển với một màu xanh biếc.
- LŨ
VÃN HOÀN 屢往還 : là Mấy lượt đi về. Đi đi về về
mấy lượt.
- TRỤY
NHÂN GIAN 墜人間 : là Rơi xuống trần gian.
-
TRƯƠNG THIẾU BẢO 張少保 : Tức Trương Hán Siêu đời Trần,
được phong hàm Thiếu Bảo, sau khi mất được thăng Thái Bảo, hàm chánh nhất phẩm.
Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, quê làng Phúc Thành, huyện An Ninh (sau đổi là
Phúc Âm, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, làm quan đời Trần, chức Tham Tri
Chính Sự. Về già ở ẩn tại núi Dục Thuý.
- BI 碑 : là Bia. TIỄN 蘚 : là Rong rêu.
* Nghĩa bài Thơ :
NÚI DỤC THÚY
Trước
cửa biển có núi tiên, năm trước đây ta đã mấy lượt đi về nơi nầy. Toà núi như
là một đóa hoa sen nổi trên mặt nước như là cảnh tiên rơi xuống nhân gian nầy vậy.
Bóng tháp in trên nước như trâm bích ngọc và các gợn sóng sáng lấp lánh như
gương soi các lọn tóc xanh. Trước cảnh đẹp nầy, làm cho ta chợt nhớ đến Trương
Thiếu Bảo, nhưng tấm bia đá khắc về ông đã lốm đốm rêu xanh cả rồi !
* Diễn Nôm :
DỤC THÚY SAN
Cửa biển
có tiên san,
Năm
qua vẫn khứ hoàn.
Hoa
sen trên mặt nước,
Tiên cảnh
lạc nhân gian.
Bóng
tháp như trâm ngọc,
Sóng
xanh tựa tóc nàng.
Nhớ
ngài Trương Thiếu Bảo,
Bia khắc
cỏ rêu lan.
lục bát :
Núi
tiên cửa biển cận kề,
Năm
qua mấy lượt đi về nơi đây.
Như
sen nổi mặt nước đầy,
Bồng
Lai tiên cảnh đọa đày nhân gian.
Tháp
in đáy nước trâm vàng,
Sóng vờn
tựa kính soi làn tóc mây.
Nhớ
Trương Thiếu Bảo nơi nầy,
Rêu
xanh lốm đốn phủ đầy thạch bia !
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* Các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ*