Tác giả Phạm Đức Nhì
ĐỌC BÀI THƠ PHƯƠNG XA
BẰNG ĐÔI MẮT BÌNH PHẨM NGHIÊM TÚC
Tính
tính tính tình tang tang tang
Cuộc
đời mình như chiếc thuyền nan
Trôi
nó trôi bềnh bồng
Ði
tới Tô-Ky-Ô
Mình xách tay chiếc dù
Mặc áo ki-mô-nô
Tô-Ky-Ô Tô-Ky-Ô
Dù là dù với ki-mô-nô.
……………………..
Trên
đây là một đoạn của Chiếc Thuyền Nan, một bài hát vui mà các thành viên của
Hướng Đạo, Gia Đình Phật Tử,
Thiếu
Nhi Thánh Thể … thường hát trong các buổi sinh hoạt. Bài hát diễn tả niềm hạnh
phúc
được
đến các vùng đất lạ, học thêm được những kiến thức mới bổ ích cho cuộc đời. Khoảng
cuối những năm 30s,
đầu
những năm 40s thế kỷ trước (1) có một thi sĩ cũng bước lên thuyền ra khơi nhưng
với tâm trạng và mục
đích
hoàn toàn khác. Đó chính là thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong thi phẩm Phương Xa.
Phương Xa
Nhổ
neo rồi thuyền ơi! Xin mặc sóng
Xô
về Đông hay giạt tới phương Đoài
Xa
mặt đất giữa vô cùng cao rộng
Lòng
cô đơn cay đắng, họa dần vơi.
Lũ
chúng ta, lạc loài dăm bẩy đứa
Bị
quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh
Bể
vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền
ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.
Lũ
chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ
Một
đôi người u uất nỗi trơ vơ
Đời
kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền
ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.
Men
đã ngấm bọn ta chờ nắng tắt
Treo
buồm cao cùng cao tiếng hò khoan
Gió
đã nổi nhịp trăng chiều hiu hắt
Thuyền
ơi thuyền! Theo gió hãy cho ngoan.
VŨ HOÀNG
CHƯƠNG
Hai
Khổ Thơ Tuyệt Vời
Người
đọc dễ nhận thấy hồn cốt của bài thơ nằm ở 2 khổ giữa, gồm mấy ý chính như sau:
có sự khác biệt quá lớn giữa thi sĩ và xã hội, khó có thể dung hợp nên ông muốn
“bỏ đi thật xa” để khỏi phải sống, phải nghe, phải nhìn những cảnh đời ngang
tai, trái mắt.
Lũ
chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị
quê hương ruồng bỏ giống nỏi khinh
Dù
thể xác vẫn là hình hài con người, hơn nữa, lại là con người Việt Nam máu đỏ da
vàng, nhưng ông có cảm giác như một kẻ lạc loài, và vì thế nên bị quê hương ruồng
bỏ giống nòi khinh khi.
Bể
vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền
ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh
do
đó mới có tâm trạng chán chường đến cùng cực, chỉ muốn lênh đênh trên biển cả,
chẳng cần biết đâu là bờ, đâu là bến hết.
Khổ
thơ kế tiếp được nhìn dưới góc cạnh thời gian:
Lũ
chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một
đôi người u uất nỗi trơ vơ
Người
đời thường nói “sinh bất phùng thời”, câu nói đã cũ rich, khô cứng. Thi sĩ của
chúng ta, cũng cái ý ấy, đã sáng tạo một câu thơ độc đáo, ngôn từ mới, hình ảnh
mới, vóc dáng mới:
Lũ
chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
phải
nói là một câu thơ hay tuyệt. Ông (và một nhóm bạn nào đó) mang tâm trạng vừa
cô độc, trơ trọi vừa bơ vơ, không có chỗ bám víu, nương tựa bởi vì:
Đời
kiêu bạc không dung hồn giản dị
sự
vận hành của cuộc đời hoàn toàn khác, không thể dung hợp với cách suy nghĩ,
cách nhìn cuộc đời của ông. Và ông đã yêu cầu:
Thuyền
ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ
để
được thoát hẳn cái khung cảnh xã hội mà đối với nhịp suy tư của tâm hồn ông chỉ
là “cung đàn lạc điệu”
Như
vậy ý chính của bài thơ có thể tóm tắt như sau: tác giả và nhóm bạn của ông là
những kẻ “lạc loài” lại “đầu thai lầm thế kỷ,” không hợp với xã hội đương thời
nên bị ruồng rẫy, rẻ rúng, chỉ muốn lênh đênh trên biển cả, không cần biết
phương hướng bến bờ, hoặc trôi giạt vào một hoang đảo nào đó để khỏi phải tiếp
xúc với cuộc đời “kiêu bạc.”
Trên
bề mặt chữ nghĩa là như vậy, nhưng thực tế thì hoàn toàn khác. Vũ Hoàng Chương
la toáng lên là:
“Lũ
chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị
quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.”
Nhưng
khi tự nhận là “lạc loài dăm bảy đứa” thì chính ông (và nhóm bạn nào đó) mới
là những kẻ đã đoạn tuyệt với dòng giống, chối bỏ quê hương. Mẹ VN, thời nào
cũng vậy, vẫn dang rộng vòng tay chứ nào có ruồng rẫy, rẻ rúng đứa con nào. Ông
còn bù lu bù loa “Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,” nhưng thật ra chính cái
bản tính kiêu kỳ, cao ngạo của ông mới là thủ phạm của sự “bất dung hợp” với cuộc
đời; ông không muốn “hạ cố” hòa nhập với cuộc đời chứ không phải cuộc đời không
chấp nhận ông.
Đó
là tâm trạng của ông, cái nhìn chủ quan của ông đối với cuộc sống. Đúng hay sai
xin nhường cho bạn đọc tự phán xét. Đối với thái độ ngông nghênh, xa lánh cuộc
đời của ông tôi chỉ “kính nhi viễn chi”. Nhưng trong thơ, đặc biệt là bài thơ
Phương Xa, chữ How (thế nào) quan trọng hơn chữ What (cái gì) rất nhiều. Chắc một
số bạn đọc cũng như tôi, không thể không khoái tài thơ của ông trong cách ông
diễn tả tâm trạng và thái độ của mình. Một nhà thơ đã viết: “Nói là nói cái gì;
làm thơ là nói để được cái thú nghe lời mình nói”. Đọc Phương Xa, cái thú
“nghe” ông nói lớn hơn cái thú được biết ông nói gì rất nhiều. Điều thi sĩ nói
có người đồng ý, có người không, nhưng cái cách ông nói thì hấp dẫn quá, ngôn
ngữ của ông cao sang quá; qua tài thơ độc đáo của mình ông đã đưa ý tưởng vào 2
khổ chính của bài thơ, tạo nên một khung cảnh thơ rất đẹp, hình ảnh lãng mạn, nên
thơ, gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Cấu Trúc Thơ hay
Trận Địa Chữ Nghĩa của Phương Xa
Về
hình thức, đây là bài thơ bát ngôn (8 chữ) trường thiên gồm 16 câu được chia
làm 4 khổ, mỗi khổ 4 câu. Vần gieo gián cách (1/3, 2/4) rất chân phương, nghĩa
là tác giả áp dụng cách gieo phần của thơ mới (ảnh hưởng Pháp) rất đúng nguyên
tắc, rất cứng:
Khổ
1: sóng rộng, Đoài vơi.
Khổ
2: đứa nữa, khinh đênh.
Khổ
3: kỷ dị, vơ sơ.
Khổ
4: tắt hắt, khoan ngoan.
Có
thể nói món chè Phương Xa được nêm hơi nhiều đường; bài thơ có vần khá đậm.
Khuyết
điểm chính của bài thơ là Phân Bổ Lực Lượng Không Cân Xứng
Tứ
thơ được gói ghém, cô đọng ở khổ 2 và khổ 3. Khổ đầu và khổ cuối chỉ làm nhiệm
vụ mở đề và kết luận. Như vậy mở đề và kết luận hơi dài, không cân xứng so với
phần chính của bài thơ. Và vì hơi dài nên đã sinh ra môt số khuyết điểm khác:
Khổ
thơ đầu tiên có đoạn:
“Nhổ
neo rồi thuyền ơi! Xin mặc sóng
Xô
về Đông hay dạt tới phương Đoài”
ý
trùng lặp với khổ thơ thứ 2:
“Bể
vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền
ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.”
Khổ
đầu có hai câu thơ hơi khó hiểu:
Xa
mặt đất giữa vô cùng cao rộng,
Lòng
cô đơn cay đắng họa dần vơi.
Tại
sao lại họa dần vơi? Nếu cho rằng chung đụng với xã hội là một tai họa thì
khi đã ở trên thuyền “Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng” thì tai họa sẽ tự
động biến mất chứ làm sao mà “dần vơi” được? Theo tôi, đọc đến “họa dần vơi”
người đọc hơi bối rối, không biết tác giả muốn nói gì. Nhóm chữ ấy đã tạo một
khoảng tối trong khung cảnh thơ trong sáng.
Khổ
cuối chỉ có câu “Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy cho ngoan” là cần thiết (ý nói
thuyền vẫn tiếp tục trôi); ba câu trước được đưa vào, theo tôi, chỉ để cho đủ số
câu, số chữ, cho đủ một khổ thơ của thể thơ bát ngôn trường thiên, không giúp
ích gì nhiều cho bài thơ.
Tóm
lại, Phương Xa là một bài thơ hay, được đông đảo những người ham chuộng văn
chương (đặc biệt là ở miền nam, trong đó có tôi) yêu thích. Thuở còn học Đệ Nhị
(lớp 11 bậc trung học) tôi đã có lần làm một bài nghị luận văn chương trong kỳ
thi lục cá nguyệt (nửa niên học) mà đề tài liên quan đến bài thơ Phương Xa. Lúc
ấy tôi đã nổi hứng luận bàn, lý giải và đã được thầy giáo cho điểm cao nhất lớp.
Nhắc
đến tâm trạng chán chường, lánh xa nhân thế người ta thường trích những câu
trong khổ 2 hoặc khổ 3 của bài thơ, coi như là những chứng cớ hùng hồn, đắt
giá. Tôi chợt liên tưởng đến một đội banh có một nửa là những cầu thủ siêu sao,
kỹ thuật cá nhân điêu luyện, lối chơi hấp dẫn. Hễ banh đến chân họ là khán giả
reo hò vang dậy, cổ vũ nhiệt liệt; hình như khán giả không để tâm lắm đến các cầu
thủ khác trong đội. Nhưng dưới con mắt của người am tường túc cầu thì đội banh ấy
có đội hình vá víu, phân bổ lực lượng không hợp lý, đấu pháp toàn đội không chặt
chẽ, bộc lộ nhiều sơ hở, nếu so sánh với những đội banh cùng đẳng cấp khác chắc
chắn sẽ không được đánh giá cao.
Bài
thơ Phương Xa cũng thế. Hai khổ thơ chính gồm những câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ,
đọc rồi sẽ rất khó quên. Đó là những câu thơ hay tuyệt, có khả năng hớp hồn độc
giả. Nhưng nếu xét bài thơ một cách tổng thể, toàn diện thì thế trận chữ nghĩa
của bài thơ còn lỏng lẻo, ý trùng lặp, có nhiều câu chữ dư thừa.
Nhà
văn Mai Tú Ân trong bài Phương Xa – Thơ Vũ Hoàng Chương (2) - Giới
Thiệu Những Bài Thơ Việt Nam Hay Nhất đã mạnh miệng khen rằng; “Và bài thơ
này cũng là bài thơ ‘Tổ’ được đọc nhiều nhất, được thuộc nhiều nhất trong cộng
đồng oversea hải ngoại.” (sic) Theo tôi, Mai Tú Ân, với cảm xúc chủ quan của
mình, không phân tích kỹ lưỡng, cho Phương Xa là “bài thơ Tổ”, là đã tán dương
bài thơ quá lố.
Trong
một bài khác, Giới Thiệu Bài Thơ Phương Xa Của Vũ Hoàng Chương (3), Mai Tú Ân
còn viết:
Bài
thơ được viết theo thể thơ mới 8 chữ, và cũng trở thành một bài thơ kinh điển của
thể thơ này. Với chỉ 16 câu bình dị, đậm đà luyến lái (4) nhưng lại thống thiết
làm sao với các vần điệu cứ đưa cao cao (TRẮC TRẮC) lên mãi. Những câu thơ
không gọt rũa (4), bình thường nhưng lại đắc địa đến từng chữ một.
Như
tôi đã phân tích ở trên, Phương Xa ở khổ đầu tiên có đến 11 chữ trùng lặp ý với
khổ 2, ở khổ cuối thì 3 câu (24 chữ) được đưa vào chỉ để “đứng chơi” chứ không
có đóng góp gì đáng kể cho tứ thơ. Bởi vậy khi nhà văn Mai Tú Ân phán một câu
xanh rờn: “Những câu thơ không gọt rũa (4), bình thường nhưng lại đắc địa
đến từng chữ một”thì tôi chỉ còn biết cúi đầu thán phục, bởi đó là một lời
bình “quá ư liều mạng.”
Kết
Luận
Vũ
Hoàng Chương di cư vào nam nên mặc dù “đa mang nghiện ngập” lại có cái nhìn về
xã hội, con người rất “ngược đời”, có thể là chướng ngại vật cho sự đào tạo thế
hệ trẻ trong xu hướng phát triển mới, nhưng vì thi tài của ông, vì vẻ đẹp cao
sang, lộng lẫy của thơ ca, vì giá trị nghệ thuật tự thân của tác phẩm, thơ của
ông vẫn được Bộ Giáo Dục xếp vào chương trình giảng dạy ở bậc trung học. Ông từng
là Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, mấy lần được trao giải thưởng Văn Học
Nghệ Thuật Toàn Quốc, được đại diện các thi sĩ Việt Nam tham dự Hội Nghị Thi Ca
Quốc Tế, được đại diện Văn Bút Việt Nam tham dự Văn Bút Quốc Tế, được vinh danh
là Thi Bá Việt Nam và được văn thi sĩ và những người yêu chuộng văn chương hết
mực quý mến, thương yêu. Ngoài việc dạy Việt Văn ở Chu Văn An (một trường trung
học công lập danh giá ở Sài Gòn) ông còn dạy thêm ở vài trường tư thục khác.
Tôi
có cơ may được nghe “ké” ông giảng văn mấy buổi ở trường Hồng Lạc (đường Trần
Quốc Toản) và được trò chuyện với ông. Nhưng phải đến lúc qua cái tuổi “tri
thiên mệnh” tôi mới thực sự cảm và “thấy” được cái hay, cái đẹp, cái độc đáo,
cái hồn trong một số bài thơ của ông. Bài thơ hay nhất của ông, theo tôi, rất xứng
đáng với danh hiệu “tuyệt tác thơ ca”, đã đưa ông vào vị trí của vì sao chói
sáng nhất giữa vùng trời thơ mới. Có điều Phương Xa không phải là bài thơ đó.
TEXAS
09/2015
Phạm
Đức Nhì
CHÚ
THÍCH:
1/
Tập Thơ Say (có bài Phương Xa) được xuất bản năm 1940.
4/
luyến lái: đúng ra phải là luyến láy. Gọt rũa: đúng ra phải là gọt dũa hay gọt
giũa
Nguồn tác giả :nhidpham@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* Các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ*