THÔI TA GIÃ PHỐ TÌM QUÊ,THỎNG TAY BUÔNG BỎ NHIÊU KHÊ LỤY PHIỀN.THÀ VỀ GỐI GIẤC CÔ MIÊN ,TIÊU DAO ĐÙA GIỠN CÕI MIỀN NGUYÊN SƠ!CÁM ƠN CÁC BẠN GHÉ THĂM VÀ GHI CẢM NHẬN!

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2020

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 51



HOÀNG
Thu ẩm HOÀNG HOA tửu
Đó là một trong bốn câu thơ chỉ sự "Ăn chơi bốn mùa" một cách thanh nhã của các cụ ngày xưa :

春游芳草地,        Xuân du phương thảo địa,
夏賞綠荷池,        Hạ thưởng lục hà trì.
秋飲黃花酒,        Thu ẩm hoàng hoa tửu,
冬吟白雪詩。        Đông ngâm bạch tuyết thi.
Có nghĩa :
Xuân du trên thảm cỏ non,
Hè thì thưởng ngoạn sen tròn trên ao.
Thu nhâm nhi rượu cúc đào,
Đông ngâm thơ tuyết thú nào hơn ta ?!
HOÀNG HOA TỬU 黃花酒 là Rượu hoa vàng, tức là rượu được ủ bằng hoa cúc, là CÚC TỬU 菊酒 thường uống vào mùa thu trong ngày Tiết Trùng Cửu. Ngày xưa các lính thú thường được điều đi trấn ngoài quan ải vào mùa thu năm trước, đến mùa thu năm sau thì được cho về; Vì thế nên gọi lính đi trấn thủ lưu đồn là HOÀNG HOA THÚ 黃花戌, như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc :
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn HOÀNG HOA dặm dài.
Theo chương Tiểu Nhã - Hoàng hoàng giả hoa 小雅·皇皇者华 là "Hoa nở rực rỡ khắp nơi" trong Kinh Thi 詩經. Kể việc vua dặn dò sứ thần sắp lên đường, như hai câu thơ của ông vua Trần Trùng Quang Trần Qúy Khoách :

Mấy vần thơ cũ ngợi HOÀNG HOA,
Trịnh trọng rày nhân dắng khúc ca.
HOÀNG CÁC 黃閣 là cái Gác sơn màu vàng, nơi làm việc của quan Thừa Tướng đời Hán, nên Hoàng Các dùng để chỉ nơi quyền qúy, như trong Sơ Kính Tân Trang của Chiêu Lỳ Phạm Thái :
Một chiêu là một não nùng ,
Chẳng nơi HOÀNG CÁC cũng vùng huyền lâu.
Còn trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện thì gọi là GÁC VÀNG :
Gió thanh hây hẩy GÁC VÀNG,
Thảnh thơi chèo Phó, nhẹ nhàng gánh Y.
Theo "Hoàng Cực kinh thế thư 皇极经世書", quyển sách căn cứ vào Dịch lý để giải thích về nguồn gốc của vũ trụ, sự biến thiên của tự nhiên và sự diễn tiến của lịch sử con người theo Hà lạc Tượng số 河洛、象数. Nên Từ HOÀNG CỰC 皇極 là cái chuẩn mực để thống trị thiên hạ của các bậc đế vương. Nên cũng dùng để chỉ các bậc đế vương. Như trong "Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập" của Lê Thánh Tông có câu :
Chín trùng chăm chắm ngôi HOÀNG CỰC,
Năm phúc hây hây dưới thứ dân.
Còn HOÀNG LƯƠNG 黃粱 là Giấc Hoàng Lương. Lương là Cao lương 高粱, là Kê Vàng , nên giấc HOÀNG LƯƠNG còn gọi là giấc KÊ VÀNG do tích "Chẩm Trung Ký 枕中记" trong Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 kể lại chuyện của Lư Sinh 盧生 như sau :
Đường Khai Nguyên năm thứ 7 (719), Lư Sinh bất đắc chí vì thi rớt, khi cởi lừa về đến Hàm Đan, gặp được đạo sĩ Lữ Ông trong quán, thấy chàng tỏ ra sầu muộn vì nghèo hèn. Lữ Ông bèn đưa cho chàng cái gối bằng sành bảo cứ gối đầu lên mà ngủ một giấc. Lư Sinh nghe theo, rồi mơ thấy mình về quê cưới được vợ đẹp, năm sau lại đậu Tiến sĩ, được bổ làm Thiểm Châu Mục, rồi thăng Kinh Triệu Doãn, lại vinh thăng Hộ Bộ Thượng Thơ kiêm Ngự Sử Đại Phu, Trung Thư Lệnh và cuối cùng được phong là Yên Quốc Công. Hưởng hết tột cùng vinh hoa phú quý trên đời, cả năm người con trai cũng được vinh hiển, con cháu đầy nhà, phúc lộc vinh hiễn vô song, Thọ đến tám mươi tuổi mới bị bệnh mà mất. Khi vừa đứt hơi cũng vừa lúc Lư Sinh giật mình tỉnh mộng. Đạo sĩ Lữ Ông vẫn còn ngồi bên cạnh, nồi hoàng lương của chủ quán bắt lên nấu khi nảy vẫn còn chưa chín. Lư Sinh chợt tỉnh ngô : Công danh sự nghiệp, vinh hoa phú qúy chẳng qua cũng chỉ như là một giấc mộng mà thôi !
Đọc tích trên đây làm ta nhớ đến bài hát nói "Vịnh Nhân Sinh" nổi tiếng của cụ Nguyễn Công Trứ trong chương trình cỗ văn ngày xưa :
Ôi, nhân sinh là thế ấy,
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
Vừa tỉnh giấc Nồi KÊ chửa chín.
Hoàng Lương khi dùng rộng ra thì cũng chỉ dùng để chỉ một giấc mơ mà thôi. Như khi bị Khuyển Ưng đánh thuốc mê, bắt về giao nạp cho Hoạn Bà. Thúy Kiều đã tỉnh dậy như sau khi qua một giấc mơ :
HOÀNG LƯƠNG chợt tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu tá, lâu đài nào đây ?
HOÀNG TUYỀN 黃泉 là Suối Vàng, vốn có nghĩa là một con suối ngầm ở dưới đất, vì đất màu vàng mà có tên như thế. Tương truyền người chết đều phải đi qua con suối nầy, nên nghĩa rộng ra của từ nầy là  chỉ Cỏi Chết, Âm Phủ. Theo Sách Tả Truyện 左傳 có câu : Bất cập hoàng tuyền, vô tương kiến dã 不及黃泉,無相見也。Có nghĩa : Không đến được suối vàng thì sẽ không còn được gặp mặt nhau nữa. Trung Truyện Kiều khi viếng mộ Đạm Tiên trong buổi Đạp Thanh, Thúy Kiều đã thắp hương cho Đạm Tiên với ý :
Gọi là gặp gỡ giữa đàng,
Họa là người dưới SUỐI VÀNG biết cho.
Còn trong truyện Nôm Phương Hoa Lưu Nữ Tướng thì gọi là Hoàng Tuyền :
Khi đưa người xuống HOÀNG TUYỀN,
Thì giương lấy một ngọn đèn cho cao.
Sau Hoàng Tuyền, ta có HOÀNG TƯỚC 黃雀 là con Chim Sẻ màu vàng. Theo tích sau đây :
Theo sách Hậu Hán Thư, Dương Trấn Truyện, tục Tề Hài Ký 後漢書·楊震傳.續齊諧記 : Cha của Dương Trấn là Dương Bảo lúc chín tuổi, đang đi chơi ở phía bắc núi Hoa Âm thấy một con hoàng tước bị chim cắt mổ đến bị thương, rớt dưới gốc cây bị lũ liến bu quanh định tha về tổ. Dương Bảo thấy tội nghiệp, bèn cứu đem về nhà để trong gương có lót vải gấm, cho ăn hoa cúc. Sau một trăm ngày, chim đã bình phục cánh lông đầy đủ bèn bay lên mây. Tối hôm đó, Dương Bảo nằm mơ thấy một tiểu đồng áo vàng miệng ngậm 4 vòng ngọc đến bái tạ mà rằng :"Ta là sứ giả của Tây Vương Mẫu, được ông nhân từ cứu giúp, nay đến đền ơn". Bèn tặng cho Dương Bảo bốn vòng bạch ngọc và bảo rằng :"Vòng nầy có thể bảo vệ phù hộ cho con cháu của ông vinh hiển đến bậc tam công, làm quan thanh liêm và trong sáng như là vòng ngọc nầy vậy". Qủa nhiên, Con của Dương Bảo là Dương Chấn, cháu là Dương Bỉnh, chắc là Dương Tứ, chít là Dương Biêu, 4 đời đều làm quan đến chức Thái Úy và đều rất thanh liêm cương trực và đều được người đời ca ngợi.
Tích trên cho ta 2 thành ngữ : HOÀNG TƯỚC chỉ người đưa tin, như trong truyện Trê Cóc :
Xa nghe triều đẩu anh hùng,
Đưa tin HOÀNG TƯỚC hỏi cùng phải chăng ?
NGẬM VÀNH như trong Truyện Kiều, khi ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều đã giải bày tâm sự để nhờ Sở Khanh cứu giúp :
Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
Còn nhiều kết cỏ NGÂM VÀNH về sau.
HOÀNG THẠCH tức
Hoàng Thạch Công (khoảng 292-195 trước Công Nguyên), là người đời Tần Hán, ở đất Hạ Phì. Khi Trương Lương đang dạo chơi ở trên cầu, gặp một ông già tiên phong đạo cốt, chưa kịp chào hỏi thì ông già đã làm rớt một chiếc dép xuống dưới cầu và bảo Trương Lương xuống dưới nhặt lại cho ông ta. Trương Lương vô cùng ngạc nhiên và tức giận, định dạy cho ông ta một bài học, nhưng thấy ông ta già cả và không hiểu sao lại ngoan ngoản chui xuống dưới gầm cầu nhặt dép cho ông ta. Khi dép đã được nhặt lên rồi ông lão lại chìa chân ra bảo mang vào, Trương lương lại qùy xuống xỏ dép vào chân cho ông lão. Xong việc, ông lão mĩm cười bước đi. Trương Lương còn chưa hết ngẩn ngơ thì ông lão đã quay trở lại hẹn sáng sớm năm ngày sau trở lại đây để gặp mặt. Năm ngày sau, sáng sớm, Trương Lương đến nơi thì thấy ông lão đã đến trước rồi. Ông giận dữ bảo, hẹn với người già sao lại đến muộn hơn. Bèn hẹn lại sáng sớm của năm ngày sau nữa. Trương Lương rất lấy làm lạ, lại hiếu kỳ, nên đến hẹn, chàng tranh thủ đến thật sớm, nhưng ông lão lại đến sớm hơn chàng một bước. Lại bị trách mắng và hẹn đến năm ngày sau nữa. Đến đêm hẹn, vừa mãn canh ba, khi tiếng gà đầu tiên bắt đầu gáy thì Trương Lương đã tới nơi rồi. Khi ông lão đến nơi khen rằng :"Đứa trẻ này có thể dạy bảo được!". Bèn lấy ra tặng cho Trương Lương một quyển sách, bảo rằng :"Về đọc quyển sách nầy, thì có thể làm thầy của bẫc đế vương. Mười ba năm sau tảng Hoàng Thạch dưới núi Cốc Thành đất Tế Bắc, chính là ta đó". Trương Lương về giở ra xem thì đó chính là quyển "Thái Công Binh Pháp". Nhờ quyển binh pháp nầy mà Trương Lương mới trở thành mưu thần đắc lực cho Hán Cao Tổ Lưu Bang lập nên nhà Hán sau nầy. Mười ba năm sau, khi cùng Hán Cao Tổ lui về Tế Bắc dưới chân núi Cốc Thành, nhặt được một viên HOÀNG THẠCH, xem như là bảo bối, bèn lập miếu để thờ, đến khi Trương Lương mất thì được táng chung với viên Hoàng Thạch đó.
Trong bài "Tịch Ninh Cư Thể Phú" của Nguyễn Hàng một danh sĩ ở ẩn đời Mạc có câu :
Vận năm hành, thu hai khí, nhớ mọi lời HOÀNG THẠCH dặn dò.
Còn Nguyễn Hữu Chỉnh, nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê Trung Hưng và Tây Sơn, trong bài "Trương Lưu Hầu" phú thì gọi là NÂNG CHIẾC DÉP :
Rải ngàn vàng tìm khách thiếu niên;
NÂNG CHIẾC DÉP tôn người lão trượng.
Nhớ khi học thi Tú Tài I, bài CẦM KỲ THI TỬU của cụ Nguyễn Công Trứ cũng có câu :
... Thú xuất trần, tiên vẫn là ta,
Sánh HOÀNG THẠCH, Xích Tùng, ờ cũng đáng !
Cuối cùng, ta có tích HOÀNG SÀO.
HOÀNG SÀO (835-884) người đất Oan Cú Tào Châu (thuộc Hà Trạch Sơn Đông hiện nay), là người ở vào cuối đời Đường. Lúc đầu là thủ lĩnh của bang bán muối lậu, sau là thủ lĩnh của đám dân biến nổi lên chống lại triều đình, tự xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Tề. Sử xưng là Hoàng Sào chi loạn. Khi thất bại bị chết dưới tay thuộc hạ. Theo truyền thuyết ...
Hoàng Sào là người văn võ song toàn, nhưng đi thi văn mãi không đậu, mới chuyển qua thi võ và đậu ngay Võ Trạng Nguyên. Nhưng khi vua Đường Hy Tôn triệu kiến phải giựt mình vì tướng mạo của Huỳnh Sào rất xấu xa, nên tước mất giải Võ Trạng Nguyên của Huỳnh Sào. Huỳnh Sào giận qúa nên mới đề thơ lên vách quán rượu là :
浩氣騰騰貫斗牛,   Hạo khí đằng đằng quán Đẩu Ngưu,
班超投筆去封侯。   Ban Siêu đầu bút khứ phong hầu,
馬前但得三千卒,   Mã tiền đản đắc tam thiên tốt,
敢奪唐朝四百州。   Cảm đoạt Đường Triều tứ bách châu !
Có nghĩa :
Cái hạo khí ngùn ngụt bốc lên che lắp cả sao Đẩu sao Ngưu.
Chàng Ban Siêu đã quăng bỏ ngọn bút để đi tìm kế phong hầu.
Trước ngựa nếu ta có được ba ngàn sĩ tốt,
Sẽ dám đánh và đoạt lấy bốn trăm châu quận của nhà Đường !
Diễn Nôm :
Hào khí ngút lên sao Đẩu, Ngưu,
Ban Siêu quẳng bút được phong hầu.
Nếu ta có được ba ngàn lính,
Đánh chiếm nhà Đường các quận châu.
Đối với các nhà Nho xưa thì HOÀNG (Huỳnh) SÀO là giặc, là tôi phản nghịch, nên trong Truyện Kiều khi khuyên Từ Hải quy thuận triều đình, Thúy Kiều đã dẫn tích nầy :
Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu HOÀNG SÀO ?
Chi bằng lộc trọng quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua ?! 
Hẹn bài viết tới !
Đỗ Chiêu Đức

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2020

TIẾT TÂM XUÂN



TIẾT TÂM XUÂN
Nghiên mực thấm nghiêng đôi nét bút
Chữ Tâm Xuân nghi ngút hương pha
Chiếc hồng bao, bánh mứt trà
Lòng trong ý đạo bao la tình người

Đất Phổ Luân*  từ nơi phương ấy
Vượt dặm dài cách bấy đường xa
Sắc diện vẫn thắm như hoa
Trước lên viếng Phật sau đà chúc xuân

Mồng Năm Tết còn không khí Tết
Cánh đào xuân sắc nét xinh tươi
Nở thơm dường mỉm nụ cười
Vô ngôn mà vẽ nên lời sấm vang

Đối liễn Tết Đạo Vàng huyền diệu
Nốt nhạc rung tiết điệu tâm xuân
Nở thơm một đoá hương lòng
Sống đời vui đạo thong dong nẻo về

(* Phổ Luân=Portland)
Tuệ Minh
Mồng Năm Tết Canh Tý, January 29, 2020

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2020

CÂU ĐỐI XUÂN CANH TÝ




VẾ XUẤT:
Thử về quê uống Tý canh chuột tiễn Heo đi,

Như Thị
VẾ ĐỐI
Heo rời xứ chào tri Kỷ Heo đi Tý tiễn
Mai Xuân Thanh

Heo xuống bếp xơi lợn Kỷ hợi ngắm chuột đến
Nguyễn Công Tân

Ngưu ma vương cỡi sửu tân trâu đuổi chuột chạy
Nguyễn Bá Văn

Miêu tả cảnh đội mão đinh mèo đón rắn tới
Phan Quang Hải

Hùm rủ Cọp xơi thịt Mậu Dần xua Hổ lại
Trần Ngộ


Trư xuất ngoại ăn Kỷ cháo Heo mời Chuột đến.
Uyên Quang


Trư lên phố húp cháo, Lợn sữa đón Tý về

Hồng Phượng

Hầu bỏ xứ xơi toàn cao khỉ đưa dậu tới

Danh Thư

Tự đối:
Hầu dọa Khỉ ăn Viên Mậu Thân chờ Chuột lại.
Như Thị

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2020

TỐNG TÁO THI


Inline image
TỐNG TÁO THI
Hằng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp, thì dân Việt Nam ta có tục lệ cúng tiễn đưa Ông Táo về trời, người Hoa thì cúng vào đêm 24. Theo câu nói của dân gian là " Quan tam, dân tứ, thuyền gia ngũ ", có nghĩa là : Làm quan thì đưa ông Táo ngày 23, dân thì đưa ngày 24, còn những người đi ghe theo cuộc sống thương hồ thì đưa ông Táo ngày 25.
         Bỏ qua về xuất xứ của tục lệ nầy, chỉ xét về phần cúng tế. Người Việt và người Hoa ở Việt Nam thường cúng tiễn Táo Quân bằng " thèo lèo ", bánh mức, chè Ỷ... hương hoa trà nước... và giấy tiền vàng bạc kèm theo các hình cò bay ngựa chạy. 
Inline image
Ý là để cho ông Táo cởi ngựa cởi cò về trời ( trong văn học thì cho là cởi cá Chép ), còn " thèo lèo " bánh mức... là để ăn cho ngọt miệng đặng báo cáo cho ngọt cho tốt với Ngọc Hoàng Thượng Đế về tình trạng gia đình nơi mà ông Táo đang cư ngụ....  
        Nhớ lúc nhỏ, khi gần Tết , tôi đã đọc được một bài thơ " Tống Táo Thi "
  trên báo để tiễn đưa ông Táo như sau :
                      TỐNG TÁO THI   
 
麥芽糖餅餞行蹤, Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
 
拜祝佯癡且作聾。 Bái chúc dương si thả tác lung.
 
只有一般應開口, Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
 
煩君報我一年窮。 Phiền quân báo ngã nhất niên cùng !
CHÚ THÍCH :
    1. Đường Bỉnh : là Kẹo bánh. Đường là Đường, mà cũng có
nghĩa là Kẹo nữa.
    2. Dương : là Giả đò.Tác : là Làm, ở đây có nghĩa là Làm bộ.
    3. Si : là Ngây, là Dại.  Lung : là Điếc.
    4. Nhất ban : là Mạo từ ( Article )chỉ : Một Điều, Một Cái.
    5. Nhất niên : là Cả năm, suốt năm, chớ không phải MỘT
NĂM.
DỊCH NGHĨA :
       Mạch nha, Kẹo, bánh... đưa tiễn bước chân ông đi. Khi bái kiến và chúc tụng Thượng Đế xin ông giả ngây giả điếc dùm cho ( đừng nói lung tung những chuyện không tốt của tôi ). Chỉ có một điều ông nên mở miệng nói là.... Cảm phiền ông báo với Ngọc Hoàng là sao tôi lại nghèo suốt cả năm vậy  ?!
 DIỄN NÔM :
THƠ TIỄN ÔNG TÁO
          Mạch nha kẹo bánh tiễn chân ông,
          Lên đó giả ngây giả điếc dùm.
          Chỉ có một điều nên mở miệng,
          Rằng ta nghèo suốt một năm ròng !
Đỗ Chiêu Đức.
 TÁI BÚT :                  

     Xin được nói thêm về 2 chữ THÈO LÈO.
     THÈO LÈO là phát theo âm Triều Châu của 2 chữ TRÀ LIỆU
茶料 : là Những Vật Liệu dùng để Uống Trà. VẬT LIỆU ở đây là chỉ những món đồ ngọt như : Kẹo Đậu Phọng, Kẹo mè đen, mè trắng, cốm, và những viên đậu phọng được áo một lớp đường màu trắng mà ta quen gọi là " Cứt Chuột ".
    " Thèo Lèo Cứt Chuột  " là món ngon dùng để uống trà và là món không thể thiếu khi cúng ông Táo ở quê tôi : Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xán, Phong Điền...
        Nhân nói đến thơ đưa Ông Táo, ta không thể không nhắc đến bài " Tống Táo Thi " của Lữ Mông Chính, người mà trong " Hàn Nho Phong Vị Phú " Nguyễn Công Trứ đã viết như thế nầy :
.... Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa
cởi dù che. ...
Sau đây, ta thử tìm hiểu cuộc đời nghèo khó và bài thơ đưa ông Táo nổi tiếng của ông nhé !...
 
呂蒙正(944946-1011),字聖功,河南洛陽人,977年宋太宗丁丑科狀元。呂蒙正中狀元後,曾任將作監丞、通判、著作郎、左補闕、參知政事等官銜。988年,呂蒙正出任宰相,病逝於大中祥符四年(1011年),享年67 .
          LỮ MÔNG CHÍNH ( 944 & 946- 1011 ), Tự là Thánh Công, người đất Lạc Dương tỉnh Hà Nam, đậu Trạng Nguyên năm Đinh Sửu đời Tống Thế Tôn năm 977. Sau khi đỗ Trạng, Lữ Mông Chính đã từng giữ các chức vụ Giám Thừa, Thông Phán, Trứ Tác Lang, Tả Bổ Khuyết, Tham Tri Chính Sự. Năm 988, Lữ nhậm chức Tể Tướng. Bệnh mất năm Đại Trung Tường Phù thứ 4 ( 1011 ), hưởng thọ 67 tuổi.
     Sau khi cha mất, gia cảnh ngày một suy vi . Lữ Mông Chính cùng mẹ phải tạm trú ngụ trong một lò gạch cũ, làm nghề ăn xin độ nhật.
          Một hôm, thấy trước cửa quan Tể Tướng đông nghịt những người, chen chút nhau rất náo nhiệt. Lữ cũng chen vào để xem, tình cờ một vật gì đó từ trên trời bay xuống rớt đúng vào lòng. Thì ra, thiên kim tiểu thơ của quan Tể Tướng là Lưu Nguyệt Nga đang gieo tú cầu để tìm người hôn phối. Vật bay vào lòng Lữ là trái tú cầu được Lưu tiểu thơ ném từ trên lầu xuống....
Dĩ nhiên là ông bà Tể Tướng không chịu chấp nhận hôn sự nầy, nhưng tiểu thơ Nguyệt Nga thì lại kiên trì chấp nhận từ bỏ tất cả để đi theo Lữ về sống ở lò gạch bể, vì nàng cho đây là duyên trời định và hơn nữa không thể bội tín được.
         Cuối năm đó, đến ngày đưa ông Táo, không hiểu là Lữ Mông Chính đã năn nỉ như thế nào mà ông hàng thịt bán chịu cho một miếng thịt đem về luộc để cúng ông Táo. Nhưng khi bà hàng thịt biết được việc nầy bèn mắng cho ông chồng một trận nên thân : " Nó nghèo kiết xác, làm sao có tiền trả mà bán chịu ?!". Bà ta tức tốc chạy đến lò gạch, thấy miếng thịt đang luộc dở dang trên bếp, bèn hứ một tiếng rồi vớt lấy miếng thịt đem về !. Đến nước nầy, Lữ chỉ còn biết đổ nước luộc thịt vào tô mà đưa tiễn ông Táo về trời thôi.
Trong khi thắp hương để cúng ông Táo, vì cảm khái trước cái nghèo khó của mình và cũng cảm khái trước cái nhân tình thế thái, Lữ Mông Chính đã làm bài thơ tiễn Ông Táo sau đây :
一柱清香一縷煙,    Nhất trụ thanh hương nhất lũ yên,
     
灶君今日上朝天;    Táo Quân kim nhật thướng triều thiên.
     
玉皇若問人間事,    Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
     
為道文章不值錢。    Vị đạo văn chương bất trị tiền !
 DỊCH NGHĨA :
        Một nén nhang thanh thanh tỏa ra một làn khói nhẹ, hôm nay ta đưa tiễn Táo Quân về để chầu Trời. Nếu như Ngọc Hoàng có hỏi đến chuyện của dân gian, thì xin ông hãy vì ta mà đáp rằng, văn chương không đáng giá đồng xu cắc bạc nào cả
DIỄN NÔM :
                  Một nén nhang thanh làn khói nhẹ,
                  Chầu Trời tiễn Táo đến cửa thiên.
                  Ngọc Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
                  Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền !
                                                         Đỗ Chiêu Đức.
       Câu chót của bài thơ làm ta nhớ đến câu thơ lên Hầu Trời của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu :
              " Văn chương hạ giới rẻ như bèo ! "....
       Trở lại chuyện của Lữ Mông Chính, theo truyền thuyết dân gian thì....
    ....Năm đó, sau khi Táo của các nhà đã báo cáo xong, mà đợi mãi vẫn không thấy Táo của lò gạch nơi Lữ cư ngụ. Mọi người đang nóng ruột, thì thấy Táo của Lữ Mông Chính mặt mà xanh lè, đi cà lếch cà lếch vào chầu. Ngọc Hoàng phán hỏi tại sao, thì được trả lời rằng : " Thần chỉ uống có một tô nước thịt luộc dở dang chưa chín, đã đói lại còn bị... chột bụng nên đi không nổi. ", đoạn trình bài thơ của Lữ lên cho Ngọc Hoàng xem. Ngọc Hoàng phán rằng, số của Lữ sẽ đậu Trạng Nguyên vào khoa sau, đừng lo lắng quá ! Thần Táo mới năn nỉ rằng : " Anh ta đói quá, sợ sống không nổi đến khoa sau đâu, thôi thì trước sau gì cũng đậu, xin Ngọc Hoàng thương tình.  Ngọc Hoàng bèn sai Nam Tào đem sổ sửa lại cho Lữ đậu ngay khoa nầy, vì thế mà Lữ Mông Chính mới đậu được Trạng Nguyên của khoa Đinh Sửu 977 là vậy !
  ... Trên đây là theo truyền Thuyết dân gian, chớ thực sự thì... Đằng sau sự thành công của người đàn ông, thường có bóng dáng của một người đàn bà, còn ở đây, đằng sau sự đậu đạt của Lữ Mông Chính, có tới  bóng dáng của 2 người đàn bà lận : một là Lưu tiểu thơ, 2 là bà Tể Tướng phu nhân, vì thương con gái mà lén chu cấp đầy đủ vật chất cho con và rể sinh sống, vì vậy Lữ mới yên tâm mà dùi mài kinh sử... chứ đói meo thì làm sao đủ sức mà học hành để đậu Trạng Nguyên cho được !
         Đây là ông Tể Tướng xuất thân từ khất cái ( Ăn mày )  duy nhất của lịch sử Trung Hoa : Lữ Mông Chính.
       Nói đến thơ đưa tiễn Ông Táo thì cũng không thể không nhắc tới...
LA ẨN 羅隱(833-909 )Tự là Chiêu Gián, người đất Tân Thành ( thuộc trấn Tân Đăng, thành phố Phú Dương, tỉnh Chiết Giang ngày nay ). Ông vốn tên là HOÀNH , vì từ năm 20 tuổi bắt đầu đi thi Tiến Sĩ, nhưng 10 lần vẫn không đậu, nên mới đổi tên là LA ẨN và đi tu theo đạo Lão, là một học giả thuộc Đạo Gia ở cuối đời Đường đầu đời Ngũ Đại. Thơ ông thường mang tính hiện thực, bất cần đời, nổi tiếng với các câu như :
今朝有酒今朝醉,   Kim triêu hữu tửu kim triêu túy,
         
明日愁來明日憂。   Minh nhựt sầu lai minh nhựt ưu.
 Có nghĩa :
                Hôm nay có rượu thì hôm nay say,
                Ngày mai sầu đến thì ngày mai hãy ưu sầu !
Ông cũng có một bài Tống Táo Thi giống như là của LÃ MÔNG CHÍNH đã nêu ở trên, như sau :
一盞清茶一縷煙,    Nhất trản thanh trà nhất lũ yên,
    
灶君皇帝上青天。  Táo quân hoàng đế thượng thanh thiên.
     
玉皇若問人間事,  Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
     
為道文章不值錢。  Vị đạo văn chương bất trị tiền !
CHÚ THÍCH :
       NHẤT TRẢN : là Một Chung. TRẢN là Ly, Chén nhỏ.
       TÁO QUÂN HOÀNG ĐẾ : Là Ông Hoàng Đế ở trong Bếp mà ta quen gọi là VUA BẾP.( Xuất xứ của từ VUA BẾP là do câu thơ nầy mà ra ).
DIỄN NÔM :
                 Một chén trà thơm làn khói nhẹ,
                 Chầu Trời Vua Bếp đến cửa thiên.
                 Ngọc Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
                 Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền !
       Ta thấy, chỉ có 2 câu đầu là hơi khác, còn 2 câu sau của bài thơ thì giống y chang như là bài Tống Táo Thi của Lữ Mông Chính, và không cần phải nói ta cũng biết là Lữ đã mượn thơ của La Ẩn để cảm khái cho hoàn cảnh của mình, vì LA lớn hơn LỮ đến 111 tuổi lận, LA ở cuối đời Đường còn LỮ ở đầu đời Tống.
LỖ TẤN ( 25-9-1881--19-10-1936 ), người huyện Thiệu Hưng, Tỉnh Chiết Giang. Vốn tên là Châu Thọ Nhân, tự là Dự Sơn, Dự Đình, Sau đổi thành Dự Tài. Ông thường mặc một chiếc áo dài giản dị theo truyền thống Trung Hoa. Đầu để trần tóc dựng đứng như bàn chải, râu mép đậm như hình chữ NHẤT viết theo theo kiểu Lệ Thư. Ông là nhà Văn học, nhà Tư Tưởng vĩ đại và là chủ tướng của nền văn hóa Trung Hoa cận đại.

Sau đây là bài Tống Táo Thi ông làm năm Canh Tí 1901 lúc gia cảnh đang sa sút phải cầm cố đồ đạc để sống qua ngày.

庚子送灶即事        CANH TÝ TỐNG TÁO TỨC SỰ
1901                         năm 1901
只雞膠牙糖,          Chỉ kê giao nha đường,
典衣供瓣香。          Điển y cung biện hương.
家中無長物,          Gia trung vô trưởng vật,
豈獨少黃羊。          Khởi độc thiểu hoàng dương.
魯迅                                        Lỗ Tấn
CHÚ THÍCH :
* GIAO là chất Keo, chất Nhựa. nên...
Giao Nha Đường là Kẹo Mạch Nha.
* ĐIỂN là Cầm Cố. Điển Y là Cầm cái Áo.
* TRƯỞNG VẬT 長物 : Đồ vật có giá trị, Đồ Quý giá !
* HOÀNG DƯƠNG 黃羊 : là con Dê màu Vàng. Theo sách " Hậu Hán Thư " quyển 62 có " Âm Thức Truyện《後漢書》卷62《陰識傳》kể rằng : Đời Tuyên Đế, có người tên Âm Tử Phương, rất có hiếu lại có lòng nhân từ. Tháng Chạp hăm ba, nhà chỉ có một con dê màu vàng cũng làm thịt để cúng Táo. Từ đó về sau bỗng phát tích thành cự phú. Vì thế sau này đến ngày tế Táo, mọi người đều làm dê vàng để cúng theo, lâu dần thành lệ.
NGHĨA BÀI THƠ :
BÀI THƠ LÀM LÚC CÚNG ÔNG TÁO NĂM
CANH TÝ 1901
Chỉ vỏn vẹn có một con gà và chút đỉnh kẹo mạch nha, đó là do vừa đi cầm cái áo mà mua nhang về để cúng đó. Nhà đã không còn vật gì đáng giá nữa, chẳng phải chỉ thiếu có con dê vàng thôi không đâu ! ( Ý muốn nói là còn thiếu nhiều món để cúng nữa ! )
Chắc vì không có được dê vàng để cúng, nên Lỗ Tấn chịu nghèo suốt cuộc đời mình !
DIỄN NÔM :
TIỄN TÁO NĂM CANH TÝ 1901
Mạch nha kẹo với gà,
Cầm áo cúng hoa loa.
Nhà không còn gì quý,
Lấy đâu chú dê già !?
Lục bát :
Con gà với kẹo mạch nha,
Nén nhang cầm áo hoa loa cúng Ngài,
Hết đồ quý giá trong ngoài,
Dê vàng đừng nhắc thêm hoài công thôi !
Đỗ Chiêu Đức
       Để kết thúc bài viết nầy, xin mời cùng đọc câu đối hay và nổi tiếng thường thấy dán cho bàn thờ TÁO QUÂN như sau :
有德能司火,   Hữu đức năng ty hỏa,
                 
無私可達天。   Vô tư khả đạt thiên.
Có nghĩa :
           Có ĐỨC thì mới có thể trông coi việc củi lửa bếp nút được.
           Phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời ( để trình tấu mọi việc ).
       Như vậy là cái TIÊU CHUẨN để được làm ông Táo đâu phải dễ !. Năm mới vui xuân, mong rằng mọi người rán tích đức để tương lai đều được lên CHẦU TRỜI như ông TÁO vậy !
Đỗ Chiêu Đức


PHỎNG DỊCH TỐNG TÁO THI
THƠ TIỄN ÔNG TÁO.
Mạch nha kẹo bánh tiễn ông đi,​
Giả điếc vờ ngây chớ tấu gì.​
Chỉ một điều thôi xin nói giúp,​
Suốt năm cùng, lão vẫn bần vi.
Nguyễn Thi Mỹ Ngọc.​
Jan.17/2020.​

GỞI LỜI NHỜ TÁO

Không có mô tả ảnh.

THƠ XUÂN XƯỚNG HỌA
Như Thị &Thi Hữu
GỞI LỜI NHỜ TÁO
Hăm ba tháng chạp Táo về trời
Dâng sớ tấu trình ở những nơi
Chức sắc tham ô đều phải kể
Quan viên nhũng nhiễu cứ mà soi
Đông Trù Tư Mệnh* lòng ngay thẳng
Bếp Phủ Thần Quân lửa sáng ngời
Nhập điện Ngọc Hoàng ghi bổn phận
Dân đen gởi gắm chớ quên lời
Như Thị
*Tước vị của Táo Quân
BÀI HỌA
Táo Quân Sắp Thượng Lộ Lên Trời
( Ngày 23 Tháng Chạp Năm Kỷ Hợi )
Thấm thoát Táo Quân thượng lộ... Trời
Hăm ba tháng chạp cũng gần nơi
Sớ dâng mọi chuyện Trên xem xét
Giấy thảo đủ điều dưới tỏ soi
Thần Bếp chép ghi lời gởi gắm
Quản Gia cung cấp nước xin ngời
Tham ô lãng phi ghi con số
Phụng mệnh tấu chương chép vạn lời...
Mai Xuân Thanh- 15/01/2020
HÃY NHỚ LỜI
Nửa tấc mà sao đã đến trời
Buôn thần bán thánh khắp cùng nơi
Giết người bạch nhật nào đâu sánh
Cướp của thanh hiên có giỏi soi
Bỏ rọ một bầy trôi láng nghỉm
Vô lò cả lũ cháy than ngời
Hai ba tháng chạp coi chừng đó
Để liệu năm nay hãy nhớ lời.
Phan Tự Trí
CÔNG. BÁO..
Đến hẹn hâm ba tới báo trời..
Năm qua táo tấu việc nhiều nơi....
Quan tham hạ giới nhiều vô kể..
Thần nịnh trần gian..quá hết soi
Ái quốc hỏi còn bao kẻ thẳng
Trung quân có gặp bấy nhiêu ngời
Hảy nhanh sớ tấu xét dân phận
Đễ được bình yên..xin cáo lời
N CôngTân-16.1.2020
MẾN YÊU ÔNG TÁO
Mẹ mua Chép khỏe Táo lên trời
Mẹ nhắc Ngài rằng tấu tận nơi
Rau sạch giúp ngon cùng mắt rạng
Bếp từ vừa nấu vẫn gương soi
Sơn hào hải vị không hề thiếu
Nước chấm bột nêm cũng rất ngời
Chỉ tội tiền khan nên kiệm đó
Mến Ông em sẽ chẳng quên lời
Trần Như Tùng
GỞI SỚ DÂNG LÊN
Gởi sớ dâng lên thấu tận trời
Gian trần xáo trộn khổ nhiều nơi
Tham tàn sách nhiễu chưa thay đổi
Bạo ngược tung hoành hãy xét soi
Những chuyện đau lòng chưa sáng tỏ
Vài phương ảm đạm khó tươi ngời
Mong chờ Thượng Giới xem tình cảnh
Thỉnh nguyện dân sinh Táo nhớ lời….
Đức Hạnh -17 01 2020
NHẮN CÙNG TÁO QUÂN
Đến hẹn Táo Quân đáo cổng Trời
Tấu trình Thượng Đế mọi điều soi
Đừng quên nhũng lạm đang đều khắp
Chớ ngại tham ô ở mọi nơi
Khốn khổ oan khiên kêu chẳng thấm
Đau lòng tai họa gọi không ngơi
Tình hình thế giới nào an ổn
Ngài đọc sớ tâu kể hết lời
Songquang-20200117 
GỞI LỜI NHỜ TÁO
Tháng chạp hăm ba Táo yết trời,
Cò bay ngựa chạy khắp nơi nơi.
Thèo lèo cứt chuột nên ngon ngọt,
Giả điếc giả ngây chớ mói soi.
Có đức có công lòng rạng rạng,
Vô tư vô túi dạ ngời ngời.
Trình tâu Ngọc Đế ta xa xứ,
Bốn chục năm hơn, nhớ lấy lời !
Đỗ Chiêu Đức
Tất niên 2019
* Chú Thích :
- Dân Nam Kỳ Lục Tỉnh đưa Ông Táo bằng  Cò Bay Ngựa Chạy, chớ không bằng Cá Chép.
- Thèo lèo cứt chuột cúng tiễn Táo Quân ăn cho ngọt miệng để tâu cho tốt.
- Câu đối thờ Táo Quân là :
有德能司火,   Hữu đức năng ty hỏa,
無私可達天。   Vô tư khả đạt thiên.
Có nghĩa :
Có ĐỨC thì mới có thể trông coi việc củi lửa bếp nút được.
Phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời (để trình tấu mọi việc).
ÔNG TÁO VỀ TRỜI
Ông Táo hằng năm phải đến Trời,
Dâng tờ trình tấu chuyện muôn nơi.
Gia đình nội sự xin cầu khẩn,
Đất nước tình hình kính sáng soi.
Chân thực một lòng luôn trụ vững,
Trung kiên chặc dạ mãi soi ngời.
Xét thương nhân thế dâng cầu cứu:
“An lạc trần gian” kỉnh một lời.
Hồ Nguyễn
ƠN MƯA MÓC
Hăm ba tháng chạp TÁO  lên trời
Nhờ tóm lượm giùm khắp mọi nơi
Cập nhật thông tin trình suy xét
Gom mail ,báo chí để xem soi
Trần gian nhiều kẻ lòng u tối
Cõi tạm ít tên óc sáng ngời
Phận kẻ thấp hèn đời thống khổ
Cầu ơn mưa móc thấu nghe  lời
HỒNG PHƯỢNG
CÁO SỚ CUỐI NĂM
Hôm qua đúng hẹn Táo lên trời
Tờ sớ dài thòn chuyện khắp nơi
Hạ giới tùm lum đầy oán thán
Quan quân bạo ngược chẳng dòm soi
Cháy rừng miệt dưới sinh linh chết
Xén đất vùng trên ngọn lửa ngời
Bom đạn đông tây đều khủng khiếp
Xin ngài nghe TÁO tấu đôi lời !
NS-CANADA