LẼ VÔ THƯỜNG TRONG THƠ TRANG TỬ, NGUYỄN BÍNH, XUÂN
DIỆU…
Tình cờ lướt
web, đọc bài Đạo Chích (chương 29, Trang Tử Nam Hoa Kinh), tôi cứ tủm tỉm cười.
Trang Tử khá “độc” khi đem “vạn thế sư biểu” Khổng Tử của Nho giáo ra đùa cợt.
Hình ảnh uy nghi, khẳng khái “uy vũ bất năng khuất” đâu chẳng thấy mà chỉ còn là
hình ảnh lão già tầm thường run như cầy sấy trước hành động hung cuồng bạo ngược
của Đạo Chích – kẻ bị cho là “đào tường khoét vách, lùa ngựa bò, bắt cóc vợ và
con gái người ta, tham lợi tới quên cả thân thích, không đoái hoài tới cha mẹ
anh em, không cúng giỗ tổ tiên”. Đạo Chích vừa mới cất vài lời “cường ngôn” phản
bác mà “Khổng Tử vái hai vái rồi vội vàng chạy ra cửa, lên xe ba lần mới nắm được
dây cương vì hoảng hốt, mắt không thấy rõ, mặt tái như tro tàn, ngồi dựa vào
cái đòn ở trước xe, đầu cuối xuống, thở không ra hơi”. Trang Tử khéo giễu quá
đi thôi! Đạo giáo cùng Nho giáo Tàu cũng “chỏi” nhau ra trò đó chứ!
Nhắc đến Trang Tử,
tôi chợt nhớ hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:
“Học làm Trang Tử
thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ bồn ca
gõ hát chơi”
Qua hai câu thơ ấy,
hình tượng Trang Tử có vẻ tiêu sái thoát tục, tôi tò mò tìm đọc nội dung khúc Cổ
Bồn Ca xem thế nào. Hoá ra Trang Tử thiêu cơ nghiệp và gõ bồn hát, cảm khái vì
lẽ vô thường “vợ mình thằng khác xài, con mình thằng khác sai”... Sao bi hài thế
nhỉ !
CỔ BỒN CA
Kham ta phù thế
sự
Hữu như hoa khai
tạ
Thê tử ngã tất
mai
Ngã tử thê tất
giá.
Ngã nhược tiên tử
thời
Nhất trường đại
tiếu thoại
Điền bị tha nhân
canh
Mã bị tha nhân khóa
Thê bị tha nhân
luyến
Tử bị tha nhân mạ.
Dĩ tử đổng thường
tình
Tương khan lệ bất
hạ
Thế nhân tiếu
ngã bất bi thương
Ngã tiếu thế
nhân không đoạn trường
Thế sự nhược
hoàn khốc đắc chuyển
Ngã diệc thương
sầu lệ vạn hàng.
TRANG TỬ
BÀI HÁT CỔ BỒN
Ôi cuộc đời nổi
trôi
Khác nào hoa nở,
rụng
Vợ chết trước ta
lo mai táng
Ta chết vợ sang
ngang.
Ví bằng ta chết
trước
Thật một trường
đại hài hước
Ruộng ta người sẽ
cày
Ngựa ta người sẽ
cỡi
Vợ ta người sẽ
thương
Con ta người mắng
chửi.
Tình thế là như
vậy
Nếu lệ ta chẳng
rơi
Thế gian cười tớ
vô tình
Tớ cười thiên hạ
như bình lệ chan
Khóc mà đổi được
tuần hoàn
Thì ta đã khóc
muôn ngàn năm nay.
VÕ TƯ NHƯỢNG dịch
Sự tích Trang Tử
đốt nhà và gõ bồn hát, như sau:
Trang Tử đi chơi
về, nằm lăn xuống phản kê giữa nhà, chân chữ ngũ, chàng cười, cười như nắc nẻ,
cười mãi. Vợ Trang Tử thấy lạ, lấy ghế ngồi bên cạnh, hỏi chồng: “Mình có việc
gì mà cười lắm thế?” Trang Tử ngồi nhỏm dậy, nói: “Thế này nhé...” rồi lại cười.
Khi ngớt cơn cười, Trang Tử mới kể:
Trang Tử đi qua
một cánh đồng chợt thấy một thiếu phụ xinh đẹp, đội khăn tang che mái tóc mượt
mà, đang cố sức quạt lấy quạt để; trước mặt nàng là một nấm mồ mới đắp, cỏ chưa
mọc, đất còn ẩm. Trang Tử lấy làm lạ; chàng dừng lại, chăm chú nhìn. Thiếu phụ
xinh đẹp quạt rất nhiệt tình, mỏi tay này đổi tay khác. “Hay là nàng thương người
dưới mồ nóng bức?”. Nghĩ vậy, chàng đánh liều hỏi: “Thưa quí nhân, nàng quạt mồ
là nghĩa làm sao?”. Người đẹp ngước đôi mắt đen long lanh, đáp: “Ðây là mồ chồng
thiếp. Trước khi chết, chồng thiếp trối trăn hai, ba lần: Phải đợi đất mồ chàng
khô rồi hãy lấy chồng. Thiếp thương chồng, không quên lời căn dặn cuối cùng của
chàng, nên thiếp quạt mồ chóng khô.” Trang Tử lại tỏ lòng thương xót người thiếu
phụ biết làm theo lời trăn trối của chồng.
Nghe câu chuyện,
vợ Trang Tử ngúng nguẩy đứng dậy, nhăn nhó: “Thế mà mình cười được. Ðàn bà đâu
trơ trẽn đến thế”. Trang Tử thở dài: “Chỉ mong khi tôi chết, mình quàn tôi một
trăm ngày rồi hãy chôn, sau đó hãy tái giá nhé!”. Vợ Trang Tử trách móc chồng
vì đã nói gỡ, nàng đoan chắc nếu Trang Tử có mệnh hệ nào, thì nàng nhất quyết
cư tang, suốt đời thủ tiết thờ chồng không tái giá. Không bao lâu, Trang Tử bỗng
nhiên đột tử. Thi hài Trang Tử liệm trong quan tài, quàn trong nhà. Ðược dăm
hôm, một chàng trai trẻ đẹp, hào hoa đến. Chàng thư sinh nhận mình là học trò
thầy Trang Tử, đến phúng viếng thầy. Chàng nói: “Nhà tôi ở mãi chân núi, xin cô
cho ở lại mấy hôm”. Vợ Trang Tử vừa thấy chàng, đã đem lòng vấn vương; nàng vội
nhận lời. Từ đêm ấy, hai bên quấn quít nhau, không rời nhau được. Bỗng một hôm,
chàng ôm bụng lăn lộn trên giường, mồ hôi nhễ nhại. Chàng trai kêu đau, rên la
thảm thiết. Chàng ú ớ nói chàng khó qua khỏi. Người thiếu phụ hoảng hốt. Chàng
bảo vốn chàng bị bệnh đau bụng kinh niên, chỉ một thứ thuốc duy nhất cứu được
chàng: lấy sọ người mới chết, mài ra, uống ngụm nước nóng, thế là khỏi. Vợ
Trang Tử, ngay đêm ấy, lấy cái vồ đập săng đựng xác chồng, định lấy cái sọ chồng
chữa bệnh cho người tình. “Thịch, thịch, thịch” vồ nện mấy nhát, nắp săng bật
tung. Trang Tử nhổm dậy hỏi “nàng làm gì vậy ?” Sau cơn hoảng sợ, vợ Trang Tử
trấn tĩnh lại, nàng đáp: “thiếp nghe trong quan tài có tiếng động, nên nghĩ rằng
chàng tỉnh lại nên cậy quan tài ra”.
Trang Tử bước ra
khỏi quan tài, cùng vợ trở về phòng. Vợ Trang Tử bước đi mà lòng lo lắng… Về đến
phòng, không thấy thư sinh đâu cả. Đang bần thần thì Trang Tử bảo: “Ta gọi người
tình của nàng đến nhé”. Ngọn đèn trong phòng chao chao và mờ dần, Trang Tử đột
nhiên biến mất và chàng thư sinh trẻ đẹp hiện ra…Vợ Trang Tử biết chồng dùng
phép thuật để thử lòng vợ. Nàng xấu hổ quá, nàng ốm, vài hôm sau nàng chết.
Nàng chết, Trang Tử nực cười cho đời người. Chàng lấy cái chậu, vừa gõ vừa ca
bài Cổ bồn, bài ca vừa như cười, cái cười hềnh hệch, vừa như khóc, cái khóc xót
xa cho thân phận con người: “Ôi thói đời! Nghĩ mà đau lòng...! Nhìn nhau lệ chẳng
rơi lã chã...! Ta cười cuộc đời lắm nỗi đau thương...”.
(Phỏng theo Kim
cổ kỳ quan của Ủng Bảo lão nhân)
Từ câu chuyện
trên, dân gian Việt Nam có câu: Quạt mồ còn hơn bổ quan tài.
Hay là:
Thương thay cho
kẻ quạt mồ
Ghét thay cho kẻ
cầm vồ bửa săng.
Thiên Chí Lạc,
Nam Hoa Kinh viết:
“Vợ Trang Tử mất,
Huệ Thi đến điếu, thấy Trang Tử ngồi duỗi xoạc hai chân vừa gõ bồn vừa ca. Huệ
Tử hỏi:
- Cùng người ở tới
già, có con lớn mà người chết lại không khóc, cũng là đã quá lắm rồi ! Lại còn
vỗ bồn mà ca, không quá lắm sao?
Trang Tử đáp:
- Không ! Lúc
nàng mới chết, tôi sao chẳng động lòng, nhưng nghĩ lại, hồi trước nàng vốn
không sinh, chẳng những không sinh mà đó lại vốn không hình, chẳng những không
hình mà đó vốn là không khí. Đó chẳng qua là tạp chất trong hư không biến ra mà
có khí, khí biến ra mà có hình, hình biến ra mà có sinh, rồi lại biến ra nữa mà
có tử. Khí, hình, sinh, tử, có khác nào xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa vận hành.
Vả lại, người ta đã nghỉ yên nơi Cự thất (nhà Lớn), mà tôi còn cứ than khóc, chẳng
là tự tôi không thông Mệnh ư, nên tôi không khóc.”
Đọc sự tích “Trang
Tử gõ bồn ca”, lòng tôi bâng khuâng cảm khái lẽ vô thường của đời người. Trang
Tử là người đạt đạo mới có thái độ khác thường với nỗi bi thương chính mình. Có
đâu như nhà thơ Nguyễn Bính hễ tơ lòng chạm phím là ai oán ngân nga. Khi người
yêu “sang ngang”, nhà thơ Nguyễn Bính đã tỏ ra rất ngỡ ngàng:
Có người đêm ấy
khoe chồng mới:
“Em chửa yêu ai,
mới có mình”
Có người trong
gió rét chiều đông
Chăm chỉ đan cho
trọn áo chồng
Còn bảo: “Đường
len đan vụng quá!
Lần đầu đan áo
kiểu đàn ông”
Có lẽ khi đang
ngây ngất men nồng tình ái, người yêu Nguyễn Bính cũng thầm thỉ bên tai chàng “Em
chửa yêu ai, mới có mình”. Nhà thơ cay đắng thốt lên:
Vâng chính là cô
chửa yêu ai
Lần đầu đan áo
kiểu con trai
Tôi về thu lá ba
đông lại
Đốt hết cho cô
khỏi thẹn lời
Câu thơ “Tôi về
thu lá ba đông lại” có dị bản là “Tôi về thu cả ba đông lại”. Nhưng theo như một
số bạn thơ của Nguyễn Bính, “lá” là từ ngữ dùng trong sáng tác ban đầu, nhà thơ
Nguyễn Bính chỉnh sửa lại là“cả” trong các lần tái bản sau. “Lá” trong câu thơ
trên là lá thư, phong thư. Nguyễn Bính đã nâng niu cất giữ những những lá thư
tình trong 3 năm liền, thế mà “người ta” bỗng phút chốc thản nhiên coi như
không. Hận tình đời đen bạc, nhà thơ uất nghẹn muốn đem đốt hết cho người yêu
cũ thanh thản bên chồng. Nhưng, “người ta” quên chứ Nguyễn Bính có quên đâu.
Nguyễn Bính chưa thấu lẽ vô thường trong tình ái nên vẫn u uất:
Tất cả mùa đông
đan áo len
Cho người cho tất
cả người quen
Còn tôi người lạ,
tôi người lạ,
Có cũng nên mà
không cũng nên.
(“Vâng” - Nguyễn
Bính)
Là nhà thơ tiền
chiến đồng thời với Nguyễn Bính, nhưng Xuân Diệu tỏ ra khác hẳn và tỉnh táo hơn
nhiều, ông đã thẳng thắn viết:
Ai nói trước
lòng anh không phản trắc
Mà lòng em sao lại
chắc trơ trơ
(“Giục giã” - Xuân
Diệu)
Nhà thơ Xuân Diệu
với những bài thơ tình lãng mạn được giới trẻ yêu thích một thời, có câu thơ
mang chút ít triết lý:
Trong gặp gỡ đã
có mầm ly biệt
(“Giục giã” -
Xuân Diệu)
Mới đọc, ta thấy
hơi khó hiểu, nhưng đọc đoạn thơ sau thì nhà thơ đã trình bày rõ ràng:
Hoa nở để mà
tàn;
Trăng tròn để mà
khuyết;
Bèo hợp để chia
tan;
Người gần để ly
biệt.
(“Hoa nở để mà
tàn” - Xuân Diệu)
Đúng thế “Trong
gặp gỡ đã có mầm ly biệt”, chỉ vì có họp mặt mới có chia tay, “mầm ly biệt” đã
nhú lên ngay từ khi mới quen nhau. Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết đó là
lẽ vô thường nhưng cũng là quy luật của sự vật. Nhưng, dù là quy luật thì khó
có ai không bùi ngùi trong cảnh chia tay:
Hoa thu không nắng
cũng phai màu;
Trên mặt người
kia in nét đau.
(“Hoa nở để mà
tàn” - Xuân Diệu)
“Ôi cảnh biệt ly
sao mà buồn vậy”
(Quốc văn giáo
khoa thư)
Gặp gỡ để rồi ngậm
ngùi ly biệt. Xa nhau lại hoài niệm, nhớ nhung, nuối tiếc những tháng ngày mặn
nồng dịu ấm hương tình:
Thôi hết rồi!
Còn chi nữa đâu em!
Thôi hết rồi,
gió gác với trăng thềm.
Với sương lá rụng
trên đầu gần gũi,
Thôi đã hết hờn
ghen và giận tủi.
(Được giận hờn
nhau! Sung sướng bao nhiêu!)
Anh một mình,
nghe tất cả buổi chiều
Vào chậm chậm ở
trong hồn hiu quạnh.
Anh nhớ tiếng.
Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh
nhớ lắm! Em ơi!
Anh nhớ anh của
ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang
cười ở phương trời.
Nhớ đôi mắt đang
nhìn anh đăm đắm!
Gió bao lần từng
trận gió thương đi,
- Mà kỷ niệm,
ôi, còn gọi ta chi...
(“Tương tư chiều” - Xuân Diệu)
Lẽ vô thường
trong thơ Trang Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu gieo nỗi man mác bâng khuâng trong
lòng tôi mấy hôm nay. Sáng nay đi lễ, nghe bài giảng của cha xứ, trong đó có
câu:
Vanitas
vanitatum et omnia vanitas
Hư không của sự
hư không - thế sự hư không!
(Truyền đạo
1:2-3)
Phù vân, quả là
phù vân. Tất cả chỉ là phù vân…
(Gv 1,2)
Mọi điều đó là sự
hư không theo luồng gió thổi…
(Truyền-đạo
2:1-26)
Sách Truyền đạo
của Solomon (Kinh Thánh, Cựu Ước) ghi:“Hư không của sự hư không, hư không của sự
hư không, thảy đều hư không. Các việc lao khổ loài người làm ra dưới mặt trời,
thì được ích lợi chi?”
Thế sự phù vân
và cái việc “làm chi cho mệt một đời” mà Kinh Thánh nêu ở trên có nét tương đồng
với tư tưởng vô vi của Lão Trang trong thơ của Lý Bạch và Đỗ Phủ, những đại thi
hào thời Thịnh Đường:
Thế sự nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh
Thế sự nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh
Ở đời như mộng lớn
Làm chi cho nhọc
mình!
(“Xuân nhật tuý
khởi ngôn chí” – Lý Bạch)
Thiên thượng phù
vân như bạch y
Tu tư hốt biến
vi thương cẩu.
“Trên trời mây nổi
như áo trắng
Phút chốc biến
thành chó xanh”
(“Khả Thán” – Đỗ
Phủ)
Thay đổi là
nguyên lý của Vạn vật và Vũ trụ. Vì thế cách đây trên 5000 năm Đức Phật cũng đã
nói đến Vô Thường.
Sự tương đồng giữa
Kinh Thánh Thiên Chúa giáo với tư tưởng Phật giáo và tư tưởng Lão Trang thật
thú vị ! Ô hay, tưởng rằng chỉ có Lão Trang mới nói đến phù vân, vô thường, vô
vi trong đời sống và nguồn khởi dẫn của Đạo. Phật giáo mới nói đến hư vô, sắc
không; giờ lại nghe Thiên Chúa giáo nhắc đến hư không, phù vân. Cuộc đời đúng
là “bức tranh vân cẩu”, quả vô thường thật !
La Thụy-7/8/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* Các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ*