ĐỌC “KHUNG TRỜI CŨ” THƠ TUỆ SĨ
KHUNG TRỜI CŨ
Tác giả: Tuệ Sỹ
Ðôi mắt ướt tuổi
vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến
biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng!
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng!
Ðếm tóc bạc tuổi
đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tuệ Sỹ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tuệ Sỹ
Lời Bình; Châu Thạch
Tuệ Sĩ là một
nhà thơ được mên mộ, một thiền sư được kính trọng. Ngài còn là một tù nhân
lương tâm chịu án tử hình. Cuộc đời ngài và thơ ngài đã được viết hàng ngàn
trang và sẽ đi vào lịch sử, văn học sử.
Bài thơ “Khung Trời Cũ” của ngài là một bài được nhà thơ Bùi Giáng, cũng là một nhà thơ được trọng
vọng bậc nhất Việt Nam đánh giá là một
bài thơ “đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây
Phương.”
Trước hết, ta
hãy thưởng thức khổ đầu của bài thơ “Khung Trời Cũ”:
Ðôi mắt ướt tuổi
vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Bình về ba chữ “đôi mắt ướt”, nhà thơ Bùi Giáng đã viết:
“Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện
tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật
như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày
nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng?”
Bùi giáng không
bình hai chữ “tuổi vàng. Thế nhưng ta biết
“tuổi vàng” cũng có nhiều nghĩa. Tuổi vàng là tuổi thời thanh xuân trẻ đẹp.
Tuổi vàng cũng là tuổi về già như lá vàng ảm đạm.
Về cụm từ “khung
trời hội cũ” Bùi Giáng viết: “Đôi mắt ướt tuổi vàng /Khung trời /Hội cũ. Xin xuống
giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm.
Hoài niệm gì? - khung trời hội cũ. Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? -
"Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".
Về câu thơ “Áo
màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang” nhà thơ Bùi Giáng viết: “Áo nào màu
xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng
và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?” Bùi giáng cho biết, Tuệ Sĩ vốn
xưa kia có một thời ở Lào nên có thể “áo màu xanh” là áo của cô gái Lào thuở ấy.
Đọc khổ thơ nầy,
Châu Thạch liên nghĩ đến “đôi mắt ướt” không phải là đôi mắt lệ trào mà cũng
không phải là đôi mắt long lanh. Ở đây Tuệ Sĩ không nói rõ đôi mắt của ai những
có thể hiểu ngầm là đôi mắt cúa chính nhà thơ.
Nhà thơ là một
tu sĩ đầy đạo hạnh, cho nên khó mà ngài chú ý đến một đôi mắt long lanh của
giai nhân nào đó để đến nỗi thành thơ, cho nên cũng khó mà làm cho đôi mắt ngài
ướt lệ bởi cái tâm ngài đã đi vào cõi tịnh, không khóc cười cho sinh diệt của
trần gian.
Vậy “đôi mắt ướt”
của Tuệ Sĩ là đôi mắt gì? Đó là đôi mắt huệ. “Đôi mắt thấu rõ, thông suốt, vượt
ra ngoài chấp trước, không hề vương vấn, không hề lưu lại, không chìm nơi cảnh,
chẳng đọng nơi tâm, phủ sạch mê mờ. Nhìn mà không đắm, thấy mà không vương
không khởi, thấy đơn thuần chỉ là thấy, thấy như là không thấy, thấy một cách rõ
ràng chân thật, thấy trọn vẹn tận cùng thể tánh các pháp, cái thấy đó mới là
đích thực”. Cái thấy đó nằm trong “đôi mắt ướt” của thi nhân.
Từ quan niệm về
cái thấy trong đôi mắt ướt của thi nhân, Châu Thạch nghĩ rằng hai chữ “tuổi
vàng” cũng không để chỉ thời thanh xuân trai trẻ hay thời già lão của đời người.
Bởi vì với cái nhìn Phật pháp như thế, thì những biến động vô thường của kiếp sống,
ngài sẽ thấy xa hơn một đời người ngắn ngủi..
Vậy thì “tuổi
vàng” ở đây là tuổi của linh hồn, tức là tuổi mà linh hồn tồn tại qua bao nhiêu
kiếp cho đến nay. Hiểu như thế vì chúng ta suy diễn từ cụm từ “khung trời hội
cũ” của câu thơ. Ta để ý đến chữ “hội”. Hội là tề tựu lại, là tập trung lại. Vậy
“khung trời hội cũ” là khung trời của
bao nhiêu kiếp sống mà nhà thơ đã trãi qua được hoài niệm lại, hay được thấy lại
trong đôi mắt ướt là đôi mắt thông tuệ, đôi mắt nhìn thấy bánh xe luân hồi đã
quay trong những đời quá khứ của thi nhân.
Vậy thì qua câu
thơ “Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ” có thể hiểu Tuệ Sĩ đã “quán” được,
nghĩa là đã thấy được quá khứ, thấy được
những tiền kiếp của linh hồn mình.
Từ câu thơ thứ
hai “Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang” ta liên nghĩ đến bốn câu trong
bài thơ “Hợp Tan” của Vũ Hàng Chương:
Phải chăng từ độ
ấy quan san
Trời Đất cùng nhau nỗi hợp tan
Nhưng chỉ mình ta phai áo lục
Còn Khanh sau trước vẫn hồng nhan
Trời Đất cùng nhau nỗi hợp tan
Nhưng chỉ mình ta phai áo lục
Còn Khanh sau trước vẫn hồng nhan
(Hợp tan)
Đọc Vũ Hoàng
Chương ta hiểu “áo lục” là áo của thi nhân hay nói chung là áo của kẻ sĩ, của
người nho nhã. Do vậy ta suy diển được câu thơ “Áo màu xanh không xanh mãi trên
đồi hoang” nói về sự phai màu của chiếc áo kẻ sĩ phải dãi đầu nắng mưa nơi thâm
sơn cùng cốc.
Như thế “Áo màu
xanh” chắc chắn không phải của một nàng trinh nữ nào đó trên đất Mường hay trên
đất Lào xa xôi mà một tu sĩ Phật pháp cao thâm như Tuệ Sĩ có thể lưu lại trong
tâm mình bởi “một lần nhìn đắm đuối”. Cho dầu Tuệ Sĩ là một nhà thơ chăng nữa,
thì dưới con mắt đạo mạo cúa bậc chân tu, cái nhìn “áo màu xanh” phải đem đến một
suy tư cao hơn với cái nhìn trần tục như ta .
Vậy thì qua thơ,
ta có thể hình dung Tuệ Sĩ đang ngồi một mình trên đồi cao vắng vẽ, quán tưởng
thấy tiền kiếp của mình, và bởi một phút nhìn thấy bất ngờ đó, nhà thơ biết được
linh hồn mình lang thang qua bao thế hệ như là một tên du thủ: “Phút vội vã bỗng
thấy mình du thủ”. Du thủ du thực hiểu nghĩa xấu là chơi bời lêu lỏng, xấu xa,
hung bạo. hiểu theo nghĩa bình thường thì là người nay đây mai đó, sống lông bông
không ổn định.
Du thủ hiểu theo
nghĩa thơ Tuệ Sĩ là một con người cô đôc đi mãi mê trong vô định, từ kiếp nầy
lang thang qua kiếp khác, để bây giờ ngồi đây “Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện
trăng tàn”.
Khuya là hình ảnh
cúa đêm thế gian mờ tối, trăng tàn là sự sáng của trăng sắp tắt, hay là hình ảnh
của đời người đi qua muôn kiếp, chẳng
khác chi những đêm trăng tàn trên trần thế.
Tuệ sĩ đã “Thắp
đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn”. Nhà thơ kể cho ai nghe đây? Kể cho mình
nghe, trước sự vô thường, phôi pha, biến
động thầm lặng của đất trời:
Từ núi lạnh đến
biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng!
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng!
Nhà thơ Bùi Giáng
đã bình khổ thơ nầy như sau:
“Thy nhân đã mấy
phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng
ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải? Đỉnh đá và hạt
muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương
màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó
là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuyết nguyệt phiêu du”
Nhà thơ Tuệ Sĩ
đã đem đỉnh đá và hạt muốn đặt ngang
nhau. Ta thây hạt muối tan mau, đỉnh đá tồn tại ngàn năm nhưng rồi cũng sẽ tan
một thời kỳ nào đó, Hiện giờ cả hai chưa tan nhưng sự phù du của nó có khác gì
nhau. Đối với thiên nhiên “ngàn năm như một ngày, một ngày như ngàn năm”vậy.
Nhà thơ hiểu luật vô thường nên cười với một ngày nắng qua mau và tự tại khi thấy
nay mùa đông mai đã mùa hạ rồi.
Khổ thơ cho ta
thấy một thế giới lạnh lùng biến động, muôn vật đều đồng một thể, thay đổi trong cái thời gian lạnh lùng mà sự
ngắn dài của tháng năm trở thành vô nghĩa. Khổ thơ cũng dạy nhìn đời bằng cái
tâm trung tính, vắng lặng với nụ cười như nụ cười vô tư trong nắng.
Cuối cùng nhà
thơ tự thú mình chưa già mà đã mỏi gối chồn chân:
Ðếm tóc bạc tuổi
đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Ở vế thơ trên Tuệ
Sĩ nói mình đang ngồi trên “Đỉnh đá nầy” để thấy “đồi hoang”, “núi lạnh” và “biển im”. Vậy nhưng bây giờ nhà thơ “ngó lại”
thì thấy “ bốn vách tường ủ rủ”. Đây là bức tường của những kiếp nhân sinh, bức
tường khổ đế, bức tường sinh lão bệnh tử. Đúng ra là bức tường thời gian nhốt
bánh xe luân hồi trong đó để Tuệ Sĩ hay loài người cứ phải lang thang trong đó
vạn ngàn năm.
Bài thơ cho ta
thấy một tuổi vàng, một tuổi muối, một tuổi đá đều như nhau cả, Tất cả sẽ từ tuổi
nầy đi qua tuổi khác, lang thang trong thời gian vô định như bốn bức tường nhốt linh hồn ta trong trủng bóng chết đời đời
mà dầu tu hành như thiền sư cũng chưa thể thoát ra! Đọc bài thơ linh hồn ta cảm
nhận được hết cái thú đau thương là cái
thú được nghe tiếng thơ trong sáng vô biên viết về sự trầm tư trong linh hồn
cúa một thiền sư đức cao trọng vọng ./.
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
* Các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ*