THÔI TA GIÃ PHỐ TÌM QUÊ,THỎNG TAY BUÔNG BỎ NHIÊU KHÊ LỤY PHIỀN.THÀ VỀ GỐI GIẤC CÔ MIÊN ,TIÊU DAO ĐÙA GIỠN CÕI MIỀN NGUYÊN SƠ!CÁM ƠN CÁC BẠN GHÉ THĂM VÀ GHI CẢM NHẬN!

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

NGŨ KHÚC HOA HỒNG


HỒNG HOA LÃM NGUYỆT!

Bài xướng

NGŨ KHÚC HOA HỒNG

1.
Biểu tượng tình yêu của lứa đôi
Long lanh sắc nước với hương trời
Nhụy thơm ngào ngạt trong sương sớm
Cánh thắm mỹ miều dưới nắng tươi          
Khép nép trên cành e gió cuốn     
Ngại ngần dưới lá sợ mưa rơi       
Tay trần vin bẻ nhầm gai nhọn                  
Em cũng như hoa thật tuyệt vời.
2.
Vời vợi trông theo một bóng hồng
Em đi trời đất cũng vào đông
Gió lùa giá rét tràn qua ngõ          
Mây phủ buồn thương ngập cả lòng
Một ánh trăng mờ soi lạc lõng
Muôn làn sóng cuộn vỗ mênh mông
Tâm tư thổn thức nên vần điệu
Phổ khúc tình ca để hát rong…
3.
Rong rêu phủ lấp dấu hài xưa
Sỏi đá buồn thiu dưới nắng mưa
Trăng rụng nhạt nhòa muôn ánh vỡ
Hoa trôi phảng phất chút hương thừa
Bến mơ sương trắng bờ lau cũ
Lầu mộng cát vàng ngọn sóng đưa
Theo vết xe lăn  miền cổ tích
Hỏi người lấp biển đã đầy chưa ?
4.
Chưa gặp nên còn mãi đợi nhau
Như trời đêm đợi ánh trăng sao
Sao khuya lẫn khuất vầng mây xám
Trăng khuyết mờ soi mảnh lụa đào
Một kiếp vương mang niềm trắc ẩn
Ngàn năm day dứt mối tâm giao
Tương tư là chuyện từ  thiên cổ
Hỏi tóc nào xanh chẳng bạc màu ?
5.
Màu thời gian như màu tình yêu
Cái thưở ban đầu mơ ước nhiều
Mắt biếc lung linh - cành liễu rủ
Môi hồng thánh thót  - sáo nguyên tiêu
Tóc xanh như nhuộm ngàn cây cỏ
Má đỏ dường pha những ráng chiều
Ai bảo hương phai làm lạt nắng ?
Cho lòng tin tín nỗi cô liêu.
            Kim Dung - Bến Tre

Bài họa

CHỜ XUÂN CHÍN

1.
Bạch, nhung hé nhụy ước thành đôi
Tung cánh hương bay tới cõi  trời
Chung dậu chung tình  mưa vẫn thắm
Nối đường nối nghĩa nắng càng tươi          
Thương yêu trải lá ghìm sương xuống       
Quý mến ôm cành giữ tuyết rơi    
Gai chỉ xin người thôi bỡn cợt       
Như em sâu lắng giữa xa vời.
2.
Vời trông lá biếc mới chen hồng
Em vội theo người đã mấy đông
Giá buốt đường xưa thương để dạ
Quạnh hiu  lối cũ nhớ  bên lòng
Bồn chồn giọt sáo còn nghe vọng
         Não nuột cung đàn chỉ ngó mông
Bến mộng bây giờ thơ lạc vận
Chèo im sóng lặng hết chơi rong…
3.
Rong ruổi anh về kỷ niệm xưa
Tình buồn  giọng hát ngấm cơn mưa
Thôi bay cánh hạc còn chi nữa
Để dạt vầng trăng một cõi thừa
Lá gió về khuya hờn nhẹ nhẹ
Cành chim tới sáng tủi đung đưa
Giấc mơ một thưở câu thề thốt
Biển cạn non mòn đã thấy chưa ?
4.
Chưa nên bến đỗ cứ chờ nhau
Dẫu nhoắng bên trời một ánh sao
Đã được mơ về nơi yếm thắm
Còn mong mộng gửi chốn song  đào
Tơ lòng đã trải sao đành dứt
Ngó ý còn vương nỡ hết giao
Bổi hổi sau xưa từ khởi thủy
Tình yêu trác tuyệt đến muôn màu !         
5.
Màu nhiệm chi bằng một phút yêu
Cho  nhau hết cả cứ không nhiều
Đong đưa mắt lắng trao hơi sáo
Nóng hổi môi tìm họa tiếng tiêu
Chẳng bận hong tình nương nắng sớm
Cần chi sưởi nghĩa tránh mưa chiều
Hồng ơi khép cửa chờ xuân chín
Ấp ủ hương lòng bớt tịch liêu.

                        Biên Hòa , tháng 7 năm 2012
                        Đông Thái Phan Tự Trí

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

CẢM HÈ THU!



CẢM HÈ THU!

Đan chùm nắng hạ quyện tơ vương
Tức tưởi vành tim buốt dặm đường
Phượng tủi ươm mầm hồng sách sử
Ve sầu ướp giọng tía từ chương
Bờ xưa sen nhả đài an lạc
Bến cũ cuốc van nỗi đoạn trường
Khắc khoải tuổi già mơ trẻ lại
Tay cầm giã bạn nhói niềm thương.

Tay cầm giã bạn nhói niềm thương
Xao xuyến hè tan ! lại tựu trường
Trăn trở cơn Lào đưa sĩ tử…
Ngậm ngùi  ngọn Bấc ướp vần chương
Gió mây vần vũ đau làng mạc
Mưa bão lăm le tội học đường
Trời đất vô tình chia nỗi khổ
Hắt hiu  thu rót khói buồn vương !

        Lê Đăng Mành Q Trị


CẢM HÈ THU!
              (Y đề)

Nắng hạ chiều buông sợi vấn vương
Nôn nao quê cũ mấy cung đường
Lựu loè bông lửa bài sa mạc
Quyên nhặt cành thưa bản tấu chương
Cúc mộng nôn nao ngày đến lớp
Phượng bay ngơ ngẩn buổi tan trường
Trà thơm ta ướp bao hoài vọng
Tiễn bạn tay cầm những mến thương.

Tiễn bạn tay cầm những mến thương
Rưng rưng tiếng cuốc xót đêm trường
Nhạc trao ân nghĩa say bao đoạn
Thơ thắm tâm tình thảo mấy chương
Mò mẫm đã từng quen lạc lối
Đàng hoàng đâu quản lạ sai đường
Thanh thiên vẫn nhớ màu hy vọng
Thu gửi mây lành chút khói vương !

                    Phan Tự Trí Biên Hòa

VẤN VƯƠNG !

Phượng ngả  hoe tàn tựa thể vương
Tình thu bẽn lẽn nép bên đường
Chùm hoa suối cạn xòe tươi cánh
Ngọn bút tre cằn tỏa rạng chương
Đổ nắng  phồng chân ngoài khoảnh ruộng
Tràn mưa  đẫm áo giữa thao trường
Trời xa gió giỡn  đàn chao liệng
Lá vẫy ươm cành nỗi nhớ thương

Lá vẫy ươm cành nỗi nhớ thương
Màu khăn đỏ gọi rộn hiên trường
Vào nghe rộn rã lời cô giáo
Lại kể hào hùng chuyện bến Chương
Thái Tổ yên dân dời vững phố
Đầu Đà thịnh quốc mở thông đường
Hoa đồng, cỏ nội,tình muôn trải
Gió thuận, mưa hòa nỗi vấn vương

      Phạm Duy Lương Hà Tĩnh
 
ĐÔI CHUYỆN HÈ THU
 
Đêm hè thoang thoảng dạ lan vương
Nhấm nháp câu thơ ngọt vị đường.
Đôi tiếng ve ngân ươm vận khúc
Vài nhành phượng vẫy nảy tình chương.
Thì thầm sen tỏa thơm thư sảnh
Rỉ rả trùng van rộn dạ trường.
Trăng khuyết lững lờ neo khóm trúc
Đâu đây giai điệu lý thương thương.
 
Đâu đây giai điệu lý thương thương
Tiếng hát hương thôn gửi luyện trường.
Lớp trẻ tuổi hùng vừa tuyển lính
Xóm làng hội tráng viết thêm chương.
Trăng nhà gửi thiệp vui lời chúc
Binh nhất rồi quê nhẹ bước đường.
Thu tặng heo may trao dịu mát
Đôi làn mi biếc nỗi niềm vương .
 
             Trần Như Tùng Phú Thọ
                                         Phượng cổ thành QTrị


BẤT ĐỘNG!

 
 Cháu ngoại tập Thiền

BẤT ĐỘNG!
  Biết cuộc vô thường vẫn cứ say
Hãy mau dừng lại ở nơi này
Mà nghe hơi thở từ sương khói
Để thấu nụ cười ở gió mây

Chẳng sợ sắc tàn bờ huyệt mộ
Nào vui thân hóa cõi liên đài
Có không từng đã- tay không đến
Bất động lo chi túi cạn đầy..!
 
                                                   LĐM


Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

ĐỐI NGẪU- CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT.



                      
                              ĐỐI NGẪU - LÀ MỘT VẺ ĐẸP ĐẶC SẮC, LÀ MỘT TRONG NHỮNG
                                               ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT.
Trong thực tế, người sáng tác thơ luật Đường khi bắt gặp một cảm hứng, hồn thơ đang dào dạt, bao nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn nó lên giấy mực.
Chưa xong; Người sáng tác thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao cho số câu, số chữ phải đúng theo luật; số chữ trong bài có thanh trắc phải xấp xỉ số thanh bằng.
Nếu ta gọi chữ có thanh bằng là Âm thể, chữ có thanh trắc là Dương thể, thì luật Âm Dương này Thăng Giáng Bù Trừ sát sao đến từng Liên thơ, đến cả Bài thơ.
Đó chính là điều hé mở Khái niệm về sự Cân bằng, mang đậm sắc màu Triết học cổ phương Đông (Kinh Dịch) nằm trong hình thức thơ Đường luật.
- Ý nghĩa triết học nêu trên còn thể hiện rõ ở phép đối ngẫu. Trong một liên thơ (hai câu) được gọi là có đối, thì câu trước, nó như tung, câu sau nó như hứng, nó xoắn quyện vào nhau làm cho ý thơ thêm mạch lạc.
Vậy hèn chi, người ngàn xưa đã chả đưa đối ngẫu vào thể thơ Đường Luật như một điều bắt buộc, tất yếu.
Từ đầu thế kỷ trước, đối mặt với sự thắng thế của phong trào thơ mới, Thi Bá Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ thành danh, không nỡ bỏ hẳn thơ Đường Luật ông đã sáng tác nhiều bài thơ không có đối, chỉ giữ lại có luật hạn câu, hạn chữ, hạn vận, hạn bằng trắc. Vũ Hoàng Chương xem những bài thơ đó chỉ là một thực nghiệm.
Sau đó, song song với việc sáng tác thơ mới, ông còn sáng tác nhiều bài thơ luật nghiêm chỉnh khác (như bài đa thủ “Giấc mơ tái tạo”).
Chúng ta, nay một khi đã gửi hồn cho thể thơ luật Đường thì đừng có bao giờ bực bội giữa khi đang có hồn thơ lai láng, lại bị nghẽn bởi hai cặp đối ở hai Liên (cặp) Thực, Luận và nóng vội cho rằng: làm gì mà phải đối chặt chẽ vậy.
- Đối ngẫu trong thơ đường luật bát cú, thất ngôn, ngũ ngôn nói tổng quát là có 2 phép: Phép Công Đối (Chính Đối) và Phép Khoan Đối (Thứ Đối).
A. PHÉP CÔNG ĐỐI (Chính Đối):
Có cặp Cảnh Đối (cặp thực) đối như sau:
Ngôn từ chuyển ý vô cùng ngã
Ngữ cảnh xoay vần bất tận nơi
Thật là chỉnh, thật là chính danh: Ngôn Từ với Ngữ Cảnh (Thành ngữ đối với Thành ngữ), Chuyển ý đối với Xoay vần (Trạng từ đối với nhau), Vô cùng ngã với Bất tận nơi (Trạng từ Hán Việt đối với nhau)
Hai câu thơ thật như một đôi uyên ương xoắn quyện lấy nhau
Có cặp Tình Đối (cặp Luận) đối như sau:
Đức ngộ cơ thời trao lãng tử
Tâm phùng số cuộc gởi tài nhân
Cặp đối Chính Danh (phép Chiếu Chữ) này rất nghiêm về thể thức, rất Thiền vị và cũng rất Hào hoa.
Có cặp Tình Đối (cặp luận):
Kính mắt gà đeo tròng chấp chới (chỉ tiếc là bị bệnh Bình Thanh)
Gậy càng cua chống bước lon ton.
Bằng hai câu đối chặt chẽ, như vẽ nên, như trông thấy một cây đại thọ nhanh nhảu hồn nhiên trước mắt ta.
Có sáu cách Chính Đối là:
1. Chính Danh đối, như càn khôn đối với nhật nguyệt.
Ví dụ:
Càn khôn níu lối vờn cung mộng
Nhật nguyệt vương thềm tỏa phách mơ
2. Ðồng Loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao.
ví dụ:
Chẳng nghĩ mây hờn hương bạch cúc
Đâu ngờ gió dỗi nhụy hoàng mai
3. Liên Châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách.
Ví du:
Nghiêng nghiêng suối tóc vờn trong mộng
Chếch chếch triền vai tỏa cạnh đời
4. Song Thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu.
Ví dụ:
Thân mềm phách lạc triều ngây ngất
Thể mượt hồn xiêu sóng dạt dào
5. Ðiệp Vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng.
Ví du:
Mênh mang lối cũ bờ hoang đón
Diệu vợi đường xưa bến vắng chào
6. Song Nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì.
Ví du:
Cõi thế thâu rèm kỳ ngộ mở
Miền trần cuộn sáo hợp tương khai
PHÉP ĐỐI
Câu đối là các câu văn đi song song với nhau từng cặp.
Thí dụ:
Như là tục thế khai hài kịch
Khéo để nhân gian luận hí trường
Trong bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, bắt buộc phải có đối với nhau giữa các câu 3 và 4. câu 5 và 6.
Muốn câu đối chỉnh và cân, phép đối cần phải hội đủ 3 điều kiện:
- Đối thanh
- Đối từ loại
- Đối ý
1. ĐỐI THANH
-Bảng luật trắc vần bằng:
B B T T B B T
T T B B T T B
Ví dụ:
Nghe tim nín lặng chờ tim đến
Thấy dạ im thầm ngóng dạ sang
-Bảng luật bằng vần bằng:
T T B B B T T
B B T T T B B
Ví dụ:
Cái thuở vô tình vô tứ quyện
Bây giờ hữu ý hữu vần lơi
* Chí ít là 5 vị trí các chữ số: 2,4,5,6 và 7 phải theo đúng luật Bằng Trắc.
Ví dụ:
Không ghẹo mà tâm ôi níu níu
Chẳng đùa ấy dạ hỡi giăng giăng
2. ĐỐI TỪ LOẠI
Danh từ >< Danh từ. Danh từ riêng >< Danh từ riêng. Danh từ chung >< Danh từ chung
Động từ >< Động từ.
Trạng từ >< Trạng từ.
Tính từ >< Tính từ. Tính từ có nhiều loại, nên: Gợi hình >< Gợi hình. Màu sắc >< Màu sắc. Mùi vị >< Mùi vị. Tượng thanh >< Tượng thanh. Số lượng >< Số lượng.
Tên người >< Tên người. Tên nước, Tên địa phương >< Tên nước, Tên địa phương. Mùa tiết >< Mùa tiết. Phương hướng >< Phương hướng.
Chữ nặng >< Chữ nặng. Chữ nhẹ >< Chữ nhẹ. Từ kép >< Từ kép. Từ đơn >< Từ đơn. Từ ghép >< Từ ghép. Từ Láy >< Từ Láy. Thành ngữ >< Thành ngữ. Chuyên ngữ (thuật ngữ) >< Chuyên ngữ (thuật ngữ) .v.v..
Hán Việt >< Hán Việt. Nôm (thuần Việt) >< Nôm (thuần Việt).
Ví dụ:
Ước nguyện thuyền xưa còn chẳng đến
Mong cầu bến cũ dám nào sang
Xin chú ý:
Hai cặp đối trong thơ Đường luật là Tinh hoa của bài thơ.
Nó là đặc điểm Chính để nhận biết đó là một bài thơ Đường luật.
Hai cặp đối này còn giúp ta Đo lường Trình độ làm thơ Đường luật của Tác giả.
3. ĐỐI Ý
Ý câu trên và ý câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau.
Thí dụ:
Gió ngỡ dương trần đang trải mộng
Mây tìm cõi thế để hòa mơ
hay
Im thầm khóc ngược hồi tơi tả
Nín lặng cười xuôi buổi rã rời
Xin chú ý:
Một bài thơ thất ngôn bát cú mà không có 2 cặp đối ở Thực và Luận thì không phải là một bài thơ Đường luật.

MEỌ XÂY DỰNG CẶP ĐỐI
1. Làm câu 4 trước câu 3
Làm câu 6 trước câu 5
2. Giải thích: Làm câu 4 (hay 6) trước có lợi là khi làm câu 3 (hay 5) không bị chi phối về vần, chỉ lo đối cho chỉnh thôi.
Xây dựng đối từng từ một, hoặc 2 từ một, hoặc từng cụm từ cho thật chỉnh rồi ghép lại.
Ghép xong xem toàn bộ rồi chỉnh sửa, thay thế (nếu chưa khớp ý thơ hay từ chưa hay).
3. Ví dụ:
Ta làm được câu 4: Quyện cả vần thơ lờ lững đó
Xây dựng đối:
Quyện cả >< Lưu vào
Vần thơ >< Dải phú
Lờ lững >< Ngỡ ngàng
Đó >< Đây
4. Ghép lại:
Quyện cả vần thơ lờ lững đó
Lưu vào dải phú ngỡ ngàng đây
5. Kiểm tra, chỉnh sửa và thay thế từ cho câu thơ càng phù hợp nội dung bài thơ và từ hay hơn
MẸO XÂY DỰNG CẶP ĐỐI BẰNG CÁCH SUY LUÂN
(NẾU KHÔNG RÀNH NGỮ PHÁP VÀ CÁCH PHÂN BIỆT TỪ LOẠI THÌ DÙNG CÁCH NÀY)
*1. Bạn để ý trong bài học về MẸO XÂY DỰNG PHÉP ĐỐI lấy câu 4 làm chuẩn để tìm từ đối của câu 3.
Ví dụ câu 4:
Mộng hỡi âm hồi chi cuối bể
Viết nó ra rồi tìm từ đối từng từ một hay 2 từ một như dưới đây:
-Suy luận: Mộng hỡi là Tiếng gọi. Vậy phải tìm từ cũng Tiếng gọi để đối lại: Mộng hỡi >< Mơ nào hay Duyên à.
-Suy luận tương tự: Âm hồi là một tiếng động nên phải tìm một tiếng động để đối với nó. Âm hồi >< Tiếng vọng.
- Chi là tiếng đệm. Tìm tiếng đệm nào đó để đối lại; Chi >< Cả , Lắm hay Thật.
- Cuối bể (biển) là một hình tượng. Tìm hình tượng gì đó để đối lại; Cuối bể (biển) >< Đầu non (núi) hay Đầu sông
- Ghép lại ta được:
Mộng hỡi âm hồi chi cuối bể
Mơ nào tiếng vọng cả đầu non
- Và rà soát loại, xem đã khớp ý, và từ ngữ đã mềm mại chưa
*2 Như vậy, để xây dựng cặp đối tốt phải:
a.Làm câu 4 trước và thật chính xác để làm chuẩn cho xây dựng cặp đối.
b.Cắt câu 4 ra thành từng nhóm từ nhỏ 1 hoặc 2 từ riêng biệt và suy luận tìm từ đối thích hợp cho câu 3.
c. Xong ghép lại cả 2 câu 3 và 4 xem đã hợp lý chưa. Nếu cần thì sửa chữa thêm.
Cách này cũng dùng cho cặp đối 5 và 6
PHÂN BIỆT TỪ LOẠI CÁCH ĐƠN GIẢN
1.DANH TỪ Là những từ (đơn hoặc kép) chỉ về một vật cụ thể. Ví dụ: Nhà, Xe, Người – Bình minh, Núi sông, Tổ quốc
2.ĐỘNG TỪ Là những từ chỉ hành động (hay động đậy). Ví dụ: Ăn, Ngủ, Đi – Vùng vẫy, Co giật, Lúc lắc
3.TÍNH TỪ Là từ chỉ tính chất (không động đậy, tức ngược với động từ). Ví dụ: Xanh, Nóng, Êm – Lung linh, Yên tĩnh, Mềm mại
- Chúng ta tìm hiểu về các Phép Khoan Đối. Để cho một chùm thơ, một khổ thơ không bị đơn điệu về hình thức đối ngẫu, người xưa đã đưa ra nhiều phép Đối Ngẫu Linh Hoạt hơn.

B. PHÉP KHOAN ĐỐI (Thứ Đối):
Có sáu phép Khoan Đối là:
1. Lưu Thủy đối
2. Tá Tự đôi
3. Tá Số đối
4. Đương Đối (Cú Trung đối và Tựu Cú đối)
5. Giao Cổ đối
6. Bất đối Chi đối
1. Phép Lưu Thủy Đối:
Ví dụ
Còn chăng lời hẹn bên trang sách,
Hay đã tàn theo ánh lửa đèn.
Theo quy tắc chiếu chữ thì hai câu này là thất đối.
Nhưng lại xét: Hai câu thơ có cấu trúc ngữ pháp giống nhau; mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang câu dưới làm trọn nghĩa cho câu trên. Đó là phép Lưu thủy đối.
Hay là
Chẳng ngỡ phong trần nghênh tiết hạ
Đâu ngờ tuế nguyệt vẫy thời đông
Tất cả các liên thơ mà câu trên bắt đầu bằng mấy chữ tương tự như: còn chăng…, đã sinh…, bỗng dưng…, chẳng ngỡ.... .v.v..
ứng với đầu câu dưới là các chữ tương tự như: hay đã…, phải có…, để mà…, đâu ngờ.... .v.v.
thì liên thơ đó đã theo phép Lưu Thủy đối nói trên.
2. Phép Tá Tự Đối:
Ví dụ
Nghèo sạch, thanh danh nên gắng giữ
Giầu sang, khó tính chớ nên chơi.
Câu trên, “thanh danh” là danh từ, câu dưới “khó tính” là tính từ, xét thế thì quả là bất đối. Nhưng nếu theo tiếng (không theo nghĩa thật), thì chữ “khó”, chữ “thanh” lại là tính từ; Chữ “danh” và chữ “tính” lại là danh từ. Xét theo cách này thì chúng lại đối chặt chẽ với nhau.
Phép đối này người ta lợi dụng sự đồng âm dị nghĩa để đối
Ví dụ:
Hai mái trống tung đành chịu dột
Tám giờ chuông điểm phải nằm co (của Tú xương).
3. Phép Tá Số Đối: (Phép số tự đối gắn với Tá tự đối):
Ví dụ:
Học bẩy nghề còn lo thất nghiệp
Làm ba vụ vẫn đói tư mùa.
Hơi tiếc, ở câu dưới viết: ba vụ đối với tư mùa, tuy là đúng có nội đối ở trong câu, nhưng không hay bằng câu trên: bẩy cái nghề và thất (mất) cái nghiệp. Câu dưới, nếu không vì luật bằng trắc, mà viết là: “Làm tư vụ vẫn đói tứ mùa”, thì câu đối này được xếp vào hạng tuyệt diệu.
Phép dối này được xem như là phép số tự đối có kèm theo lối chơi chữ (có thể liên hệ đến: nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc- của bà Huyện Thanh Quan).
4. Phép Đương Đối (Cú Trung đối và Tựu Cú đối):
Ví dụ
Màn trời chiếu đất con người khổ
Nước vật thuyền xơ cá biển nghèo
Nếu câu trên, câu dưới cứ chiếu từng chữ lên nhau, thì hai câu này cũng thất đối. Nhưng xét nội bộ từng câu, thì lại thấy: màn trời đối với chiếu đất; nước vật đối với thuyền xơ; đuôi câu trên (con người khổ) đối rất chặt với đuôi câu dưới (cá biển nghèo). Lấy câu có nội đối để đối nhau thì lại rất cân bằng. Đây là Cú Trung đối.
Tuy nhiên còn một số phép đối khác chúng ta ít vận dụng, xin được dẫn ra đây để cùng tham khảo.
a) Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ? (chỉ tiếc là bị bệnh Phong Yêu)
Xương gà da cóc, có đau không? (Nguyễn Khuyến)
b) Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát (chỉ tiếc là bị bệnh Phong Yêu)
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày (Hồ Xuân Hương)
c) Công đức tu hành, sư có lọng
Xu hào rủng rỉnh, mán ngồi xe. (Tú Xương)
Chúng ta để ý: Cụ Nguyễn Khuyến cũng như nữ sỹ Xuân Hương đã tổ chức từ ngữ ở từng câu, để câu nào cũng có tiểu đối, nhưng ta không xếp hai liên đối a,b nêu trên vào phép Cú trung đối, vì ngoài phần có tiểu đối, trong từng câu còn có phần bất đối. Do đó hai liên thơ a, b trên chúng ta quy vào phép Tựu cú đối.
Trong câu của Tú Xương, ông Tú đã đem cả hai cụm từ như hai thành ngữ để chọi nhau: công đức tu hành chọi với xu hào rủng rỉnh.
Mặt khác đuôi của từng câu lại đối rất chặt với nhau: Sư có lọng đối với Mán ngồi xe.
Phân tích đặc điểm này để kết luận: đây cũng là phép Tựu cú đối như a và b. Cú trung đối và Tựu cú đối, có dạng thức ngữ pháp của câu văn na ná như nhau, nên còn có tên chung là Đương đối.
5. Phép Giao Đổ đối:
Có cặp Tình Đối (câu luận):
Chân bước vững, đường chiều khấp khểnh
Rừng cây rậm rạp, trúc vươn cao. (chỉ tiếc là bị bệnh Phong Yêu và Chánh Nữu)
Đây chính là phép Giao cổ đối (hay còn gọi là Đối Chéo):
Ta thấy:
. Chân bước vững đối chéo xuống với Trúc vươn cao,
. Rừng cây rậm rạp đối chéo lên với Đường chiều khấp khểnh.
Hay là
Hờn nông nỗi ngóng tình bao độ
Dõi ái đôi lần tủi đậm sâu
Ta thấy:
. Hờn nông nỗi >< Tủi đậm sâu
. Dõi ái đôi lần >< Ngóng tình bao độ
6. Phép Bất Đối Chi Đối:
Trong buổi lễ tế “Trận vong tướng sỹ” thế kỷ 19, quan tổng trấn Nguyễn Văn Thành có sai trưng câu đối chữ hán (nay dịch nghĩa) như sau:
Bóng chiều đã ngả đâu quê cũ
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
Câu trên lấy từ thơ Thôi Hiệu, bài Hoàng Hạc Lâu.
Câu dưới lấy từ thơ Vương Hàn, bài Lương Châu Từ.
Cái hay của đôi câu đối này là: Ghép hai câu thơ khác nhau của hai tác giả mà câu đối vẫn hiệp chung một tình ý.
Câu 1 có đại ý là cảm thán tình cảnh, câu hai có đại ý là an ủi vong linh. Thật là qúa hợp với nội dung Tế Trận Vong Tướng Sỹ.
Đây là phép bất đối chi đối, lấy cái không đối để đối, không lệ thuộc vào mặt chữ mà chỉ chú trọng đến ý.
Ý phải đối nhau, cấu trúc ngữ pháp phải song song đồng dạng với nhau.
Những bậc cao niên đã khuyên rằng: nếu một khi ta chưa thật thạo về các phép đối, thì chỉ lên sử dụng các phép Chỉnh Danh đối, Lưu Thủy đối, Cú Trung đối. Còn các phép đối khác, chúng ta hãy chỉ làm quen, giúp chúng ta nhận biết được các dạng thức đối khác nhau.
Vẫn phải thưa thêm: các phép đối thơ, dù ở dạng thức nào đều phải hội đủ 3 đặc điểm:
- Đối thanh âm. Chí ít là các chữ nằm ở vị trí 2, 4, 5, 6, 7 (Thơ thất ngôn) và 2, 4, 5 ( Thơ ngũ ngôn) nhất thiết phải tuân theo luật bằng trắc.
- Đối từ loại, danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, tính từ đối với tính từ .v.v..
- Đối ý. Ý câu trên và câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ xung ý nghĩa cho nhau.
Phải nắm được các phép biến đổi từ loại ở các ngữ cảnh khác nhau. Tuy nhiên, cũng có phép đối không yêu cầu đối từ loại như theo phép chính danh đối (chiếu chữ), mà ở đó lại có sự xoay chiều để đối chéo cho nhau (giao cổ đối) .
Trong một bài thơ, những cặp Cảnh Đối (cặp thực) hay các cặp Tình Đối (cặp luận); chính là vẻ đẹp đặc sắc, và là một trong những điều kiện cần và đủ để nhận ra đó là một bài thơ Luật đường.
Đọc thơ Đường luật mà không có đối (thất đối) thì chẳng khác gì “Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm” thật là nhạt nhẽo, vô vị và không còn được gọi là một bài thơ Đường Luật nữa rồi.
SƯU TẦM (từ nhiều nguồn trên Internet và chỉnh biên):
Miên Hanh; 13-09-2013.

                                           

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

CU ĐẤT NHÀ TÔI !




CU ĐẤT NHÀ TÔI
Cu đất nhà tôi thật tuyệt vời
Cườm hoa lông mượt , gáy dài hơi
Ngày lên giọng thả không ngừng nghỉ
Đêm xướng lèo ôm chẳng chuyển dời
Lắm lúc đuôi xoè như gợi cảnh
Đôi khi đầu gật tựa trêu ngươi
Tay quen chịu đứng cho sờ mó
Tội phải đơn côi thiếu bạn đời !
PN- TRƯƠNG ĐÌNH ĐĂNG


TÂM SỰ!

Vẫy tay ly biệt cách xa vời
Kỷ vật đây còn bóng bặt hơi
Gương lược hững hờ treo nắng gội
Áo xiêm lếch thếch đợi mưa dời
Thẫn thờ mấy độ em rời bến
Vất vưởng bao năm tôi giã người
Ngày tháng trùm thêm màu ảm đạm
Quạnh hiu cứ bủa mãi bên đời

                              Lê Đăng Mành

TÌNH ĐỜI ĐÔI BẠN
Bao năm đôi bạn chẳng xa vời
Nay vắng mấy ngày hót hết hơi
Nhạn sống sắt son dù vật đổi
Én  thề chung thuỷ dẫu sao dời
Mới hay sầu cảm như chim cá
Cũng biết yêu thương tựa tính người
Mỗi phút đơn cô ngàn phút nhớ
Làm sao quên được mối tình đời

                             Trần Ngộ




MÉO TRÒN



                Hiển thị IMG_2103 ở ống nuôi con.jpg
MÉO TRÒN

Kính tặng Ông Nguyễn Hữu Định - người cha vĩ đại,
10 năm sống ở trong ống cống để nuôi con trai
 thi đậu thủ khoa Đại Học Y.

Ai đời chui rúc để nuôi con
Méo miệng mười năm giữa ống tròn
Manh chiếu te tua nghèo lại ấm
Miếng cơm rời rạc đói thành ngon
Mồ hôi thấm mặn từng xu mọn
Nước mắt tràn cay cặp gối mòn
Chỉ ước một điều con đỗ đạt
Như mơ: đầu bảng thắm tên son.

                           Phan Tự Trí

ĐÓNG DẤU SON!
Ống cống trú thân của bố con
Nhìn đời qua một lỗ xoay tròn
Dài tình dài nghĩa dài…cơn đói
Ngắn áo ngắn cơm ngắn…miếng ngon
Bươn chải suốt ngày chân chẳng mỏi
Kiếm ăn từng bữa chí không mòn
Mười năm mơ ước nay thành thật
Nhất bảng Y khoa đóng dấu son!

                     Lê Trường Hưởng 

                                Hương Nồng
Giá lạnh chan nồng đạo bố con
Mười năm vững hướng một khuôn tròn
Trai ngoan, áo cộc nên lòng ấm
Gái giỏi ,khoai sần khiến miệng ngon
Nắng đổ, sương dồn , chân vững bước
Cành vun, cội giữ, chí không mòn
Đêm tàn , đỉnh núi đường mây rạng
Quả ngọc, hoa vàng, thắm bảng son .
                        26-9-2014
                  Phạm Duy Lương

TẤM BẰNG SON
Suốt đời cha mẹ nghĩ cho con
Nuôi lớn trao khôn kiếm vẹn tròn.
Chiếu ướt mẹ nằm nhường chỗ ráo
Miếng xương cha gặm nhượng phần ngon.
Náu nhờ tìm chữ lòng thêm vững
Làm mướn chờ mai sức dẫu mòn.
Ống cống yên tâm nghiền sách vở
Chàng trai dâng bố tấm bằng son .
 
                   Trần Như Tùng
                     Duu Lau- Viet Tri- Phu Tho